Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

khóa luận tốt nghiệp ngành công tác xã hội


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của địa bàn nghiên cứu.

Tác giả khóa luận



Dương Thị Phương




















Cuộc sống sinh viên chính là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của một đời người. Bốn năm được học dưới mái trường đại học Lao động xã hội là từng ấy thời gian tôi được sống trong sự dạy dỗ ân cần của thầy, cô giáo, sống trong sự giúp đỡ, chia sẻ của bạn bè. Cũng ngần ấy thời gian xa nhà, xa sự chở che, yêu thương của gia đình, là cuộc sống tự lập chốn đô thị, là những bài học đáng nhớ nơi đất khách, quê người. Bốn năm ấy, quãng thời gian không nhiều nhưng cũng đủ để bản thân tôi trưởng thành hơn, bản lĩnh, tự tin và thu lượm, góp nhặt cho mình một kho tàng kiến thức. Tôi thấy yêu hơn nghề mình đã học.
Con cảm ơn bố mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng con lên người, cảm ơn anh chị đã luôn yêu thương, che chở cho em. Thầm cảm ơn cuộc đời đã cho tôi được sống, cảm ơn "nghề" đã chọn tôi để tôi có được hạnh phúc của người sẽ trở thành nhà công tác xã hội nay mai, sẽ là người trợ giúp những mảnh đời bất hạnh có được niềm tin.
Tôi cảm ơn ngôi trường đã là nơi tiếp sức giấc mơ tri thức, em xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa công tác xã hội đã tiếp thêm lòng yêu nghề trong em, cảm ơn các bạn đã giúp mình vượt qua khó khăn để học tập và gắn bó với nghề.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo –giảng viên Th.s Lý Thị Hàm, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo, động viên em trong quá trình làm khóa luận.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thanh thiếu niên, phụ huynh thanh thiếu niên, các thầy cô giáo và các cán bộ đoàn thể trên địa bàn thôn Đức Đại đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tại đại phương.
Chân thành cảm ơn!







Bảng
Nội dung
trang
Bảng 1
So sánh khái niệm giới và giới tính
17
Bảng 2
Cơ cấu mẫu điều tra
31
Bảng 3
So sánh quan điểm của thanh thiếu niên về quan hệ tình dục khi còn là học sinh theo độ tuổi
33
Bảng 4
35
Bảng 5
36
Bảng 6
38

40

41

42

43

44

46

47

48

49

51

53


54

Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.

















Biểu đồ
Nội dung
trang
Biểu đồ 1
Thể hiện quan điểm của thanh thiếu niên về quan hệ tình dục khi còn là học sinh
34
Biểu đồ 2
Thể hiện những nội dung giới tính, tình dục thanh thiếu niên quan tâm.
37
Biểu đồ 3
Thể hiện các phương pháp cha mẹ sử dụng khi trao đổi, chia sẻ với con về giới tính, tình dục theo nhóm tuổi.
43
































Trước hiện trạng "sống thử" và xâm hại tình dục trẻ em ngày một tăng cả ở thế giới và Việt Nam. Kéo theo đó là tỷ lệ nạo phá thai ngày một tăng, sự tăng không chỉ về số lượng mà độ tuổi cũng ngày một trẻ hóa. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hoá gia đình Việt Nam là một trong 3 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới với 1,2 - 1,6 triệu ca mỗi năm, trong đó 20% thuộc về lứa tuổi vị thành niên (13-17 tuổi). Đây đang được coi là một vấn nạn nhức nhối trong xã hội, là áp lực cho ngành y tế. Đồng thời là hồi chuông cảnh báo cho các bậc phụ huynh cũng như cho nền giáo dục. Đặc biệt là vai trò của giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên, điều này không chỉ cung cấp kiến thức mà còn định hướng giá trị giới tính và đời sống tình dục lành mạnh cho thanh thiếu niên nhằm tạo ra một thế hệ trẻ có trình độ và hiểu biết. Từ đó hạn chế những tác động không tốt của sự thiếu thông tin và hiểu biết, giảm thiểu tình trạng nạo phá thai, đại dịch HIV/AIDS, hiện trạng xâm hại tình dục trẻ em hiện đang gia tăng về số lượng và hình thức xâm hại: (số lượng đã tăng từ 200 trường hợp năm 2005 lên 1.427 vào năm 2008. Năm 2009, con số này là 833 em và ước tính  năm 2010, có khoảng 900 em là nạn nhân. Như vậy, từ năm 2008 đến nay, trung bình mỗi năm có trên 1.000 trẻ em Việt Nam bị xâm hại tình dục. Đây là con số được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố tại Tại hội thảo quốc gia “Phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” ngày 24/9/2010). (nguồn số liệu http://www.giaoducvietnam.info/nhuc-nhoi-nan-nao-pha-thai-o-gioi-tre-bai-1-noi-dau-theo-suot-cuoc-doi-2673.html).
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, theo đó là sự du nhập lối sống của phương tây, là sự tự do và dễ dãi trong tình yêu, tình dục, sự phát triển không ngừng của internet, các báo, bài viết, trang web của một số tổ chức, blog... đăng tải khá nhiều các thông tin để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về giới tính, tình dục của thanh thiếu niên. Tuy nhiên việc một số trang web lợi dụng nhu cầu này để lồng ghép vào đó những hình ảnh, video không lành mạnh là không ít,…Chính những điều này sẽ ngày một làm cho thanh thiếu niên hiểu sai, vận dụng sai những thông tin về giáo dục giới tính, tình dục trong cuộc sống, nhất là hiện tượng "thử làm người lớn" của một số thanh thiếu niên đang diễn ra ngày càng nhiều.
Chính bởi còn quá nhiều vấn đề bất cập trong vấn đề giáo dục giới tính, tình dục và những hậu quả nặng nề của sự thiếu hụt thông tin, nên trong những năm qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các khía cạnh của vấn đề giới tính, tình dục như Bùi Ngọc Oánh, Phạm Hoàng Gia, Trần Trọng Thủy, Đặng Xuân Hoài, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức,…và nhiều bài khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ của các tác giả như: Cù Xuân Diệu, Nguyễn Thị Phương Nhung, Huỳnh Văn Sơn, Đỗ Hà Thế Bình,…. đồng thời các tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nhân tố giáo dục giới tính, tình dục đến với các đối tượng, nhất là thanh thiếu niên.
Bản thân người nghiên cứu khi tiếp xúc với địa bàn thôn Đức Đại đã nhận thấy một số tồn tại bất cập của địa phương trong vấn đề giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên, trong đó:
Thứ nhất, qua tiếp xúc với các em trong độ tuổi 12-18 trong thôn Đức Đại người nghiên cứu nhận thấy các em chưa hiểu rõ những thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì, nhiều em mơ hồ về tình dục, chúng nghĩ đơn giản tình dục là ôm, hôn, ngủ với nhau lần đầu thì không có thai. Điều đó dẫn đến những hậu quả đáng tiếc là nhiều thanh niên trong thôn nghỉ học (cá biệt có em đang là học sinh lớp 9) để kết hôn vì có thai.
          Thứ hai, trong quá trình thực tập tại địa bàn thôn Đức Đại người nghiên cứu có tiến hành hoạt động công tác xã hội nhóm với nhóm phụ nữ theo chủ đề " Hỗ trợ phụ nữ về phương pháp giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại", qua đó người nghiên cứu nhận thấy hầu hết các bậc phụ huynh đều thiếu hoặc hiểu sai về giáo dục giới tính, tình dục cho con em. Đại đa số đều né tránh, trả lời đại khái, không cho con cái hỏi về những điều tế nhị này. Hầu hết các phụ huynh đều không dạy con cách phòng tránh thai khi con bước vào độ tuổi có nhu cầu về tình dục. Mặc dù chưa phải là số đông nhưng có thể thấy sự ảnh hưởng của gia đình tới việc giáo dục con em về giới tính, tình dục bởi đây là môi trường xã hội hóa đầu tiên của trẻ.
Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều lý do thôi thúc người nghiên cứu lựa chọn đề tài " Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại thị trấn Gia Lộc huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương năm 2012" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Qua bài viết người nghiên cứu ngoài mong muốn nâng cao năng lực trong nghiên cứu khoa học, người viết còn muốn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên giúp thanh thiếu niên phát triển hoàn thiện về nhân cách và tri thức.
Đề tài thực hiện với mong muốn nhằm làm rõ những ảnh hưởng của một số yếu tố tới việc giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại thị trấn Gia Lộc huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương.
Từ việc phân tích những ảnh hưởng của một số yếu tố tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại để đưa ra những đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn. Đồng thời thông qua các giải pháp đó sẽ tạo cho thanh thiếu niên một môi trường tìm hiểu giáo dục giới tính, tình dục lành mạnh và chính xác nhất, giảm thiểu hậu quả của sự sai lệch và thiếu hiểu biết thông tin.
Với đề tài này người nghiên cứu hy vọng sẽ rèn luyện thêm kỹ năng nghiên cứu khoa học cho bản thân.
          Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại thị trấn Gia Lộc huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương.
          + Thanh thiếu niên trong thôn: 103 em (độ tuổi 12-14 tuổi: 50 em, độ tuổi 15-18 em: 53 em).
          + Phụ huynh thanh thiếu niên: 30 người.
          + Giáo viên trung học cơ sở, trung học phổ thông: 8 người.
          + Các cán bộ đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cơ sở y tế: 6 người.

Thời gian: Từ tháng 1- 5/2012.
Địa điểm: Thôn Đức Đại thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Nội dung nghiên cứu:
- Ảnh hưởng của yếu tố gia đình.
- Ảnh hưởng của yếu tố giáo dục nhà trường.
- Ảnh hưởng của yếu tố truyền thông.
- Ảnh hưởng của yếu tố tổ chức đoàn thể.
- Ảnh hưởng của yếu tố nhóm bạn.
- Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa phong tục tập quán.
Người nghiên cứu chọn, nghiên cứu một số sách, báo, bài viết nói về công tác giáo dục giới tính, tình dục hiện nay, có nguồn trích dẫn và nội dung xác thực.
Nghiên cứu các đề tài khoa học, các bài khóa luận, tiểu luận của các tác giả khác có liên quan đến đề tài đang thực hiện.

6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Người nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 50 thanh thiếu niên có độ tuổi từ 12-14 tuổi, 53 em có độ tuổi từ 15-18 tuổi phát phiếu điều tra để khảo sát. Số thanh thiếu niên được chọn khảo sát là 103 em.
Người nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 30 phụ huynh học sinh để phát phiếu hỏi.

6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

          Người nghiên cứu chọn đối tượng thực hiện phỏng vấn sâu gồm: 20 thanh thiếu niên trong thôn Đức Đại (10 em trong độ tuổi 12-14, 10 em độ tuổi 15-18 tuổi), 10 phụ huynh, 8 giáo viên của hai trường cấp II, cấp III trên địa bàn (2 giáo viên trong ban giám hiệu, 6 giáo viên giảng dạy) và 6 cán bộ các đoàn thể (đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cơ sở y tế).
Người nghiên cứu đã phân tích kết quả khảo sát bằng các phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu thu thập được từ các phiếu điều tra.
Người nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định tính để khái quát tài liệu giúp người nghiên cứu hiểu rõ ảnh hưởng khách quan của các yếu tố tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại.
Người nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng để xử lý kết quả của những câu hỏi đóng.
Người nghiên cứu sử dụng phương pháp này trong việc đánh giá sự hợp tác của các mẫu được chọn điều tra, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn thông qua khảo sát thực tế.
Mức độ hiểu biết của thanh thiếu niên trong thôn Đức Đại về giới tính, tình dục vẫn còn nhiều hạn chế.
Có sự khác biệt trong mức độ hiểu biết về giới tính, tình dục giữa các lứa tuổi của thanh thiếu niên trong thôn.
Các yếu tố: gia đình, nhà trường, phương tiện truyền thông, phong tục tập quán, tổ chức đoàn thể, nhóm bạn chưa phát huy được ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn.
Khóa luận gồm 2 chương.
          A. Phần mở đầu
          B. Phần nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận
          C. Phần kết luận







Lịch sử nghiên cứu của vấn đề giáo dục giới tính và tình dục trên thế giới bắt đầu được phát triển từ đầu thế kỷ XX với một số tác phẩm có giá trị như: cuốn “những rối loạn tình dục” của nhà tâm lý học người Áo Krapht Ebing, xuất bản năm 1886, đây được coi là cuốn sách nghiên cứu về giới tính đầu tiên; ba bài thảo luận “Lý thuyết tính dục” của nhà tâm lý học Áo gốc Tiệp Sigmund Freud xuất bản năm 1905, là tác phẩm bàn về tính dục của con người; tác phẩm “ứng xử tình dục của đàn ông” tác giả Kingsey xuất bản 1948; công trình nghiên cứu mang tên “cuộc điều tra tính dục” của D.N. Zabanov và V.I. Iakovenko tiến hành từ năm 1903-1904,  tác phẩm “Colombia Mặt bằng cơ bản Sexological” của  José Manuel González , MA, Rubén Ardila , Tiến sĩ Pedro Guerrero , MD, Gloria Penagos , MD, và Bernardo Useche , Tiến sĩ Translated by Claudia Rockmaker, MSW, và Luciane Raibin, MS trong tác phẩm này người nghiên cứu thấy được nhiều điều bổ ích, bởi tác phẩm đã đưa đến cho người đọc nhiều khía cạnh của giáo dục tình dục, giới tính. Đồng thời tác phẩm nhấn mạnh tới yếu tố truyền thống có ảnh hưởng như thế nào tới nhu cầu tình dục, người nghiên cứu cho rằng đây là một bài viết khá hay cho những người muốn nghiên cứu sâu về tình dục. Trong bài viết của mình người nghiên cứu cũng vận dụng được cách phân tích yếu tố của các tác giả. Tuy vậy, là tác phẩm dịch nên nhiều phần người nghiên cứu cũng chưa được rõ (nhất là sự phân tích về đồng tính); ngoài ra còn một số chương trình hoạt động nhằm ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS trên thế giới, …
Ở Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề giới tính, tình dục, ở mọi khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong đó:
Bộ giáo dục và đào tạo, viện khoa học giáo dục Việt Nam, “Giáo dục dân số sức khỏe sinh sản vị thành niên”, là tài liệu tập huấn Bộ về vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên được in hoàn chỉnh cho đến thời điểm này. Nội dung quyển sách chủ yếu nói về: tuổi vị thành niên, tình bạn, tình dục, bình đẳng giới, tình dục và sinh sản, mang thai và các biện pháp tránh thai, cha mẹ và trách nhiệm làm cha mẹ, dân số và phát triển, chính sách dân số ở Việt Nam, kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản…Người nghiên cứu thiết nghĩ đây là một cẩm nang cho thanh thiếu niên, phụ huynh, giáo viên và những người làm công tác tuyên truyền về giới tính, tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Bộ giáo dục và đào tạo, “Sinh học 8”, đây là quyển sách sinh học dành cho học sinh lớp 8 nội dung sách được biên soạn khá hay khi nói về giới tính, cơ quan sinh sản và vệ sinh. Người nghiên cứu đã dành thời gian để đọc những sách sinh học lớp 8 cũ và tái bản thì nhận thấy nội dung chưa thực sự đầy đủ. Nội dung về giới tính, tình dục được trình bày trong 18 trang giấy để nói về đặc điểm cơ quan sinh dục của nam, nữ, sự thụ tinh, cách phòng bệnh lây nhiễm là quá ít. Những nội dung như vậy e rằng chưa thể đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của thanh thiếu niên. Hơn nữa, người nghiên cứu cho rằng cuốn sách này hơi muộn so với sự phát triển của lứa tuổi dậy thì hiện nay.
Một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Trần Trọng Thủy, Bùi Ngọc Oánh, Phạm Ngọc,…đã đi sâu phân tích các khía cạnh của giới tính, tình dục và lợi ích của giáo dục giới tính. Đồng thời cũng đặt nền móng cho sự phát triển các nghiên cứu sâu về giới tính, tình dục ở Việt Nam.
Cù Xuân Diệu, “Thực trạng giáo dục giới tính của học sinh trung học phổ thông Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu” tháng 6/2010, theo người nghiên cứu thì đây là một nghiên cứu khá hay, được tác giả thực hiện khá công phu và bài bản, đây là một tài liệu mà người nghiên cứu đã tham khảo được nhiều ý hay. Tuy nhiên người nghiên cứu cũng thấy có một số điểm chưa phù hợp, một số câu hỏi theo người nghiên cứu là chưa phù hợp với nội dung vấn đề nghiên cứu (ví dụ như: Câu hỏi đối với học sinh: Bạn có thường chơi thể thao không? Thiết nghĩ câu hỏi này ít liên quan đến nội dung vấn đề nghiên cứu).
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Nhung trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên “Biện pháp giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy – tỉnh Nam Định” tháng 9/2009, đây là một đề tài không mới, nhưng người nghiên cứu đã sử dụng những phương pháp của sư phạm để tiến hành điều tra. Chính điều này tạo ra nét mới cho bài viết. Hơn nữa người nghiên cứu đã đưa ra nhiều biện pháp hay như: sử dụng video hoặc tình huống (đóng kịch) để giáo dục sức khỏe sinh sản cho các học sinh lớp 9.
Tác phẩm “giáo dục sức khỏe tính dục” của bác sỹ, thạc sỹ Trương Trọng Hoàng, Trung tâm Truyền thông-Giáo dục Sức khỏe thành phố Hồ Chí Minh là một tác phẩm chỉ rõ sự khác biệt giữa tính dục, tình dục, giáo dục tính dục và tình dục, qua bài viết này người nghiên cứu có được khái niệm về tình dục, giáo dục tình dục một cách khoa học nhất.
“Giới và phát triển” – Đại học Lao động xã hội, 2008 đây là tài liệu dành cho sinh viên chuyên ngành công tác xã hội. Tài liệu được biên soạn khá công phu, tác phẩm chỉ rõ sự khác nhau về giới tính và giới, nhu cầu giới, sự phân công lao động theo giới, nhấn mạnh sự bình đẳng giới trong xã hội hiện đại.
Chương trình “chuyện đêm cuối tuần” 23h30 tối thứ 7 trên sóng vtv3, đài truyền hình Việt nam. Một chương trình đối thoại vấn đề giới tính, tình dục, đã đi sâu khai thác các khía cạnh của tình dục, định hướng giáo dục cho thanh thiếu niên. Là một chương trình mang tính giáo dục cao, nội dung phong phú và sự chia sẻ cởi mở. Đây được coi là một giải pháp giáo dục giới tính, tình dục hiệu quả. Qua chương trình người nghiên cứu hiểu thêm các khía cạnh ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính và nhất là tình dục cho giới trẻ hiện nay. Đồng thời qua đó, chương trình cũng đề cập cách mà phụ huynh có thể áp dụng để truyền đạt kiến thức giới tính, tình dục cho con em.
Ngoài ra, còn có các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, tuyên truyền phòng chống đại dịch HIV/AIDS, các chiến dịch tuyên truyền phòng chống lạm dụng và xâm hại tình dục trẻ em, các chương trình quốc gia về dân số, kế hoạch hóa gia đình…với các hình thức phong phú và đa dạng có nội dung liên quan đến giáo dục giới tính, tình dục cho các đối tượng trong đó có thanh thiếu niên.


          Giới tính trước hết là những đặc tính hay đặc điểm của giới (theo Thái Thị Ngọc Dư, giới và phát triển, 2006). Bao gồm các mặt tâm lý, sinh lý, mặt xã hội.
          Về mặt tâm lý: Nam – nữ có tâm lý khác nhau. Nữ có khả năng tư duy cao trong những lĩnh vực đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo còn nam mạnh về đường lối tư duy. Tình cảm ở nam là sự mạch lạc, rõ ràng, ở nữ thì thường không rõ ràng, dễ chan hòa giữa tình cảm này và tình cảm khác.
Về mặt sinh lý: Có những biến đổi trong cơ thể nam như vỡ giọng, mọc râu ở nam,…..; ở nữ ngực nở, có khả năng mang thai…
          Về mặt xã hội: Xã hội đánh giá nam nữ khác nhau. Xã hội đòi hỏi nam phải chững chạc, dũng cảm, cao thượng còn nữ giới thì phải nhu mì kín đáo, thủy chung, đảm đang. Xã hội phân công lao động nam – nữ khác nhau. Nam thường làm việc nặng, đi xa, nguy hiểm còn nữ thì thường được ưu tiên làm việc nhẹ nhàng, đòi hỏi sự khéo léo. Như vậy có thể hiểu giới tính là tất cả những đặc điểm riêng biệt tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ (theo Thái Thị Ngọc Dư, giới và phát triển, 2006).
          Giới tính được hiểu là sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới về mặt sinh học, mang tính bẩm sinh, đồng nhất và không thể thay đổi. Ví dụ nam có tinh trùng, nữ có kinh nguyệt, mang thai,… (Trích lược Tài liệu chuyên khảo giới và phát triển, trường Đại học Lao động xã hội, 2008, trang 13).
          Ở trong bài viết của mình người nghiên cứu sử dụng khái niệm giới tính của tài liệu chuyên khảo giới và phát triển của trường Đại học Lao động xã hội, 2008, trang 13. Bởi khái niệm này miêu tả đúng tính chất của giới tính về mặt sinh học của con người.
Giới có thể được hiểu theo mặt sinh học, là một tập hợp những đặc điểm sinh lý cơ thể đặc trưng ở con người. Những đặc điểm sinh lý cơ thể thường bao gồm các đặc điểm về di truyền, những hệ cơ quan sinh lý cơ thể mà điển hình quan trọng nhất là cơ quan sinh dục. Ở con người có hai loại hệ cơ quan sinh dục là hệ cơ quan sinh dục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ qui định hai giới là nam giới và nữ giới (theo Thái Thị Ngọc Dư, giới và phát triển, 2006).
“Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống nhau” (một số vấn đề về tâm lý và giới tính - Bùi Ngọc Oánh Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh).
Giới là một phạm trù được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và giá trị của giới tính do sự kỳ vọng các cộng đồng xã hội gán cho; là sự khác nhau giữa phụ nữ và nam giới về mặt xã hội, mang tính xã hội, không đồng nhất và có thể thay đổi được (Trích lược Tài liệu chuyên khảo Giới và phát triển trường Đại học Lao động xã hội, 2008, trang 12).
Sau khi nghiên cứu các khái niệm thì người nghiên cứu chọn sử dụng khái niệm giới của tài liệu chuyên khảo Giới và phát triển trường Đại học Lao động xã hội, 2008, trang 12. Bởi đây là khái niệm phản ánh đúng tính chất của giới về mặt xã hội, nhấn mạnh vai trò xã hội của nam và nữ.
Người nghiên cứu sử dụng hai khái niệm giới tính và giới của tài liệu chuyên khảo Giới và phát triển trường Đại học Lao động xã hội, 2008 để so sánh. Từ sự so sánh này sẽ giúp nhấn mạnh khái niệm giới tính mà người nghiên cứu sử dụng, tránh sự hiểu nhầm trong các khái niệm.
Bảng 1: So sánh khái niệm giới và giới tính

Giới tính
Giới
- Đặc trưng sinh học, bẩm sinh
Ví dụ: Nam có tinh trùng, nữ mang thai, nuôi con,…
- Đặc trưng xã hội, văn hóa, truyền thống, con người thông qua học hỏi mới có.
Ví dụ: Nữ chăm sóc con, nội trợ,…Nam lo kinh tế,…
- Có sự đồng nhất trên toàn thế giới
Ví dụ: phụ nữ trên toàn thế giới đều sinh con, nuôi con,…
- Không đồng nhất trên toàn thế giới..
Ví dụ: ở Nhật thì phụ nữ ở nhà chăm con,..ở Mỹ thì phụ nữ, nam giới đều có thể làm lãnh đạo.
- Mang tính chất ổn định và không thay đổi
Ví dụ: Nam giới không thể nuôi con bằng sữa,…
- Có thể thay đổi theo thời gian do các nhân tố bên ngoài.
Ví dụ: phụ nữ thời xưa không được đi học, ngày nay thì phụ nữ có thể học và đỗ cao. Nam giới xưa không thể ở nhà lo nội trợ thì nay có thể.
         
Mặc dù như vậy nhưng theo quan điểm của người nghiên cứu thì với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật thì giới tính giờ đây có thể thay đổi được, từ đó dẫn đến giới thay đổi. (ví dụ: Nam có thể chuyển giới tính thành nữ, nữ chuyển giới tính nam, từ đó thì công việc, vai trò, …của họ cũng thay đổi theo giới tính mà họ chọn).
“Tình dục” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Định nghĩa đơn giản của từ điển thì đó là những hành vi về quan hệ tính giao (dựa trên giới tính) trong đó đặc biệt bao gồm việc giao hợp.
Nhưng cách hiểu của từng người thì rất khác nhau. Đối với nhiều người tình dục là quan hệ dương vật – âm đạo. Đối với nhiều người thì đó là quan hệ dương vật – hậu môn. Đối với vài người thì đó là việc cơ quan sinh dục cọ xát vào nhau mà không cần giao hợp. Một số nghĩ rằng tiếp xúc miệng – cơ quan sinh dục cũng là tình dục. Vài người cho rằng tình dục bao gồm cả việc thủ dâm. Thực tế là, tình dục bao gồm tất cả những hình thức trên.
Tình dục là hoạt động sinh dục ở người, bao hàm: nhận thức về cảm xúc và cơ thể mình và cơ thể người khác, khả năng và nhu cầu về tình cảm khác giới, các tiếp xúc tình dục từ động chạm tới giao hợp. (Theo từ điển tiếng Việt).
Khái niệm mà người nghiên cứu sử dụng trong bài luận là khái niệm của từ điển tiếng Việt, vì khái niệm đã chỉ ra được đặc trưng của tình dục.

          Giáo dục là sự truyền thụ kinh nghiệm của người này cho người khác, từ thế hệ trước cho các thế hệ sau. (Trích lược giáo trình xã hội học đại cương và chuyên biệt, nhà xuất bản Lao động xã hội, 2008, trang 296).
          Giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của con người được giáo dục. (Theo từ điển tiếng Việt)
Giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp y khoa và sư phạm nhằm giáo dục cho thiếu nhi, thanh thiếu niên có một thái độ đúng đắn với các vấn đề giới tính (theo Nguyễn Hữu Dũng, giáo dục giới tính, 1999).
Theo Wikipedia thì giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.
Theo TS tâm lý Huỳnh Văn Sơn thì giáo dục giới tính hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội dung: Giáo dục giới tính cho trẻ, giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân, giáo dục về giới tính tuổi dậy thì, giáo dục về tình bạn -  tình yêu, tâm sinh lý hôn nhân.
Theo PGS.TS Bùi Ngọc Oánh thì giáo dục giới tính gồm 4 nội dung chính sau:
- Những tri thức và tâm sinh lý người trong đó có những đặc điểm về sinh lý tính dục (các hiện tượng như: kinh nguyệt, sự phát triển cơ thể, sinh nở, kiến thức về sức khoẻ giới tính, các bệnh lý tình dục,...).
- Những đặc điểm giới tính về đạo đức, về xã hội thẫm mỹ như cách cư xử với mọi người, với bạn khác giới, tác phong tư thế và phẩm chất đạo đức theo giới tính riêng, quan niệm về cái đẹp giới tính, những vấn đề pháp luật liên quan đến cuộc sống giới tính và gia đình (luật hôn nhân gia đình, luật phòng chống bạo hành gia đình, bình đẳng giới,…).
- Những quan hệ về bạn khác giới và tình yêu nam nữ như bản chất của tình yêu, sự cư xử trong tình yêu, quy luật của tình yêu, việc xây dựng nên một tình yêu chân thực, chân chính.
- Những vấn đề về hôn nhân và đời sống gia đình như bản chất của hôn nhân, điều kiện để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, sự chuẩn bị của cuộc sống gia đình.
          Người nghiên cứu chọn sử dụng định nghĩa của PGS.TS Bùi Ngọc Oánh vì định nghĩa của ông nêu ra được gần như các khía cạnh mà giáo dục giới tính, tình dục cần hướng đến.
Giáo dục tình dục là một quá trình lâu dài thu thập thông tin và hình thành thái độ, niềm tin và giá trị về danh tính, mối quan hệ và sự thân mật.   Nó bao gồm phát triển tình dục, sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ giữa các cá nhân, tình cảm, sự thân mật, hình ảnh cơ thể và vai trò giới tính. Giáo dục tình dục địa chỉ, kích thước sinh học, văn hóa xã hội, tâm lý và tinh thần của tình dục từ 1) tên miền nhận thức, 2) tên miền tình cảm, và 3) miền hành vi, bao gồm cả các kỹ năng giao tiếp hiệu quả và đưa ra quyết định chịu trách nhiệm. (Trích trong Hướng dẫn tình dục toàn diện Education , Hướng dẫn Nhóm Đặc trách quốc gia, 1991).
Theo Wikipedia thì "giáo dục tình dục" gồm việc giáo dục về mọi khía cạnh của hoạt động tình dục, gồm cả thông tin về kế hoạch hoá gia đình, sinh sản (khả năng sinh sản, tránh thai và sự phát triển của phôi thaithai nhi, tới sinh đẻ), cộng thêm thông tin về mọi khía cạnh đời sống tình dục của một cá nhân gồm: hình ảnh thân thể, khuynh hướng tình dục, cảm xúc tình dục, các giá trị, đưa ra quyết định, thông tin, hẹn hò, các quan hệ, các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) và làm sao để tránh chúng, và các biện pháp kiểm soát sinh sản.
Khái niệm giáo dục giới tính theo PGS.TS Bùi Ngọc Oánh đã bao hàm khái niệm giáo dục tình dục, nhưng xét ở khía cạnh sâu hơn thì định nghĩa của Wikipedia đã bám sát vào nội dung mà giáo dục tình dục đảm nhiệm. Vì vậy người nghiên cứu sử dụng song song hai khái niệm này trong bài viết.
Vai trò của giáo dục giới tính, tình dục là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ ở lứa tuổi đang lớn và liên quan đến hoạt động tình dục trong tương là một hoạt động có chức năng rất quan trọng trong việc duy trì thế hệ mai sau.
Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới thì: “Vị thành niên là những người trong độ tuổi từ 10-19. Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi”.
Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên-thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Hội kế hoạch hóa gia đình Việt Nam xác định vị thành niên - thanh niên là 10 - 24 tuổi.
Theo Luật Thanh niên được thông qua vào ngày 29/11/2005 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI và được Chủ tịch nước công bố tại lệnh số 24/2005/L/CTN ngày 09/12/2005 thì độ tuổi của thanh niên là "từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Từ những định nghĩa trên người nghiên cứu đưa ra cách hiểu về khái niệm thanh thiếu niên: Thanh thiếu niên là một nhóm xã hội đặc thù. Những nét đặc trưng của thanh thiếu niên hoàn toàn không giống với các nhóm xã hội khác. Thanh thiếu niên được phân chia theo độ tuổi:
-                     Thiếu niên là những em có độ tuổi từ 11-16 tuổi
-                     Thanh niên là những người có độ tuổi từ 16-30 tuổi.
          Theo từ điển tiếng Việt thì yếu tố là bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện tượng.
          Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt thì: Ảnh hưởng là sự tác động của vật nọ đến vật kia, của người này đến người khác.
Sự tác động hai chiều của một nhân tố này lên một nhân tố khác, sự tác động có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực.

Sự ảnh hưởng của các yếu tố là sự tác động hai chiều, tích cực hoặc tiêu cực lên một đối tượng, khách thể nào đó.
v    Yếu tố trình độ hiểu biết của thanh thiếu niên:
 Là khả năng đánh giá một vấn đề trong cuộc sống của thanh thiếu niên dựa trên sự phát triển hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh và các giác quan, sự phong phú thêm về tri thức và kinh nghiệm, sự yêu cầu ngày càng cao của hoạt động học tập, lao động,…
Trình độ hiểu biết về giới tính và tình dục sẽ giúp thanh thiếu niên ứng phó với các tình huống gặp phải trong cuộc sống và tránh được các hậu quả đáng tiếc. Ngược lại nếu thiếu hiểu biết sẽ mang đến những hệ lụy lâu dài cho không chỉ bản thân thanh thiếu niên mà cả gia đình, xã hội như: Bệnh truyền nhiễm, HIV, nạo phá thai, đơn thân nuôi con nhỏ,…
v    Yếu tố gia đình:
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người, các giá trị chuẩn mực gia đình, các khuôn mẫu hành vi, trình độ, nghề nghiệp của cá nhân sẽ được học hỏi và tác động lên các thành viên khác.
Nếu giáo dục gia đình tốt, nếu cha mẹ hiểu biết về vấn đề giới tính, tình dục và truyền đạt cho con thì sẽ giúp thanh thiếu niên có được một nền tảng kiến thức ứng phó với những điều sẽ diễn ra trong tương lai như: Tâm lý sẵn sàng khi bước vào tuổi dậy thì, tuổi yêu và biết quan hệ tình dục an toàn. Ngược lại, thanh thiếu niên sẽ thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết tạo ra tâm lý lo lắng, sợ hãi và các hậu quả đáng tiếc như: mang thai trẻ vị thành niên, bị xâm hại tình dục, ……
v    Yếu tố giáo dục trong nhà trường:
Là môi trường xã hội hóa thứ cấp, là nơi trang bị kiến thức tổng hợp về khoa học, xã hội, giúp các thành viên trong xã hội thực hiện được vai trò một cách thuần thục, bài bản.
Nếu giáo dục trong nhà trường tốt sẽ trang bị cho thanh thiếu niên kiến thức về cơ thể, các chức năng của cơ quan sinh dục, quá trình thụ tinh cũng như cách phòng tránh lây nhiễm bệnh sinh dục, phòng tránh thai,….Ngược lại nếu nền giáo dục không tốt, sai lệch làm ảnh hưởng tới sự hiểu biết của thanh thiếu niên gây ra những điều đáng tiếc: quan hệ tình dục sớm, không biết cách phòng tránh thaii, bệnh sinh dục,….
v    Yếu tố truyền thông:
Là nhân tố đóng vai trò trong quá trình xã hội hóa cá nhân, là nơi cung cấp những định hướng và các quan điểm đối với các sự kiện xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.
Mặt tích cực của yếu tố truyền thông là sẽ giúp thanh thiếu niên có nhiều cơ hội tiếp xúc với lượng thông tin phong phú, đa dạng phục vụ cho nhu cầu học hỏi, khám phá, tích lũy tri thức. Nhất là đối với những người không có cơ hội tới trường. Hơn nữa, các kiến thức về giới tính, tình dục được cung cấp dưới nhiều hình thức, đa dạng về nội dung nên dễ thu hút thanh thiếu niên.
Tuy nhiên, cùng với đó là sự ảnh hưởng tiêu cực của các quan điểm sai lệch, đồi trụy, các web đen, các lượng thông tin “không sạch” làm ảnh hưởng tiêu cực tới một lượng không nhỏ thanh thiếu niên, dẫn đến lối sống buông thả: sống thử, tập làm “chuyện người lớn”, quan hệ tình dục vị thành niên, nghiện sex, …
v    Yếu tố giáo dục cộng đồng và nhóm bạn:
Đây là nhân tố đóng vai trò giúp các cá nhân tương tác những gì đã thu lượm trong nền giáo dục gia đình, nhà trường và từ các yếu tố truyền thông.
Nếu nhóm bạn có các hoạt động lành mạnh, chia sẻ những hiểu biết về giới tính, tình dục từ các nguồn thông tin tin cậy sẽ giúp thanh thiếu niên phát triển về giao tiếp, về kỹ năng, hiểu biết kiến thức và tự giải quyết tình huống. Nhưng đồng thời với đó là lượng thông tin giới tính, tình dục chia sẻ không nguồn tin cậy, sự rủ rê “thử” những hành vi như: (đụng chạm thân thể, cơ quan sinh dục, quan hệ tình dục,…) sẽ dẫn đến những hệ quả đáng tiếc: quan hệ tình dục vị thành niên, hiếp dâm, ...
Yếu tố giáo dục cộng đồng cũng có nhiều ảnh hưởng đến việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên, cụ thể:
Hầu hết thanh thiếu niên đều tham gia sinh hoạt đoàn việc lồng ghép nội dung giáo dục giới tính, tình dục vào một số hoạt động đoàn sẽ dễ đến được với các em. Hơn nữa, nhiều hoạt động Đoàn sẽ giúp tách các em ra khỏi nhóm bạn không tốt, giảm những hành vi không lành mạnh của các em như: nghiện game (trong đó có game sex), …Ngược lại sẽ đẩy các em vào sâu các hành vi lệch chuẩn như: nghiện game sex dẫn đến thực hiện các hành vi đó ngoài đời thực như: hiếp dâm, hiếp dâm tập thể, quan hệ tình dục vị thành niên,…)
Hội phụ nữ có nhiều hoạt động, chương trình về giáo dục sức khỏe giới tính, tình dục và sinh sản nếu thực hiện tốt tới thanh thiếu niên nữ sẽ giúp các em có được kiến thức tổng hợp để chăm sóc và bảo vệ bản thân. Ngược lại, nếu không thu hút được sự tham gia của các em sẽ khiến các em có hiểu biết không đầy đủ, dễ bị lợi dụng, dễ gặp phải các vấn đề: Bị xâm hại tình dục, mang thai vị thành niên, bệnh truyền nhiễm,…
Nhất là các chương trình, hoạt động tuyên truyền của cơ sở y tế về giới tính, tình dục nếu được thực hiện nghiêm túc, triệt để sẽ cung cấp lượng kiến thức đầy đủ, khoa học đến cho tất cả các thành viên trong xã hội trong đó có thanh thiếu niên để tránh được các hệ lụy đáng tiếc, giảm thiểu bệnh truyền nhiễm (HIV), bệnh sinh dục, giảm thiểu vấn nạn nạo phá thai, sinh con vị thành niên. Ngược lại sẽ làm tăng các vấn nạn này trong xã hội, gánh nặng cho y tế và các chính sách xã hội khác.
v    Yếu tố văn hóa phong tục tập quán:
Là những quan niệm, giá trị truyền thống có ảnh hưởng tới quan điểm, lối sống của mỗi cá nhân trong xã hội.
Nếu phong tục tập quán của địa phương tiến bộ sẽ giúp cho thanh thiếu niên nhận thức được các hành vi sai lệch, tránh được tình trạng tảo hôn, cưỡng ép kết hôn. Ngược lại, nếu phong tục tập quán lạc hậu sẽ dẫn đến tình trạng kết hôn sớm, làm ảnh hưởng đến chính sách pháp luật của nhà nước về hôn nhân, gia đình.
Theo giáo trình Tâm lý học phát triển nhà xuất bản giáo dục 2008, giáo trình hành vi con người và môi trường xã hội trường Đại học Lao động xã hội 2010, thì đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi 12-18 tuổi là:
Sang đầu tuổi thiếu niên 12-14 tuổi, có một sự phát triển đột biến về sinh lý, đặc biệt là sự phát triển nhanh của hệ cơ quan sinh dục làm cho giới tính và ý thức về giới tính của trẻ phát triển mạnh. Cơ thể trẻ lúc này diễn ra những thay đổi lớn (nam mọc râu, bể giọng, xuất hiện lông ở vùng kín, nổi mụn trứng cá, có hiện tượng mộng tinh…; nữ phát triển ngực, có kinh nguyệt, cơ quan sinh dục có sự thay đổi theo chiều hướng hoàn thiện hơn…Tất cả những hiện tượng trên đều do tác động của các hooc-môn sinh dục. Đặc điểm nổi bật của lứa tuổi này chính là thời kỳ phát dục. Thời kỳ này các em bắt đầu quan tâm tới các bạn khác giới, có những rung động đầu đời, e dè và kín đáo trong giao tiếp hơn. Ở lứa tuổi này các em đã có thể thực hiện được chức năng sinh sản. Tuy nhiên, các em chưa thật sự trưởng thành về mặt cơ thể và nhất là về mặt xã hội.
Đặc điểm tâm lý cơ bản:
Sự phát triển các quá trình nhận thức như; tri giác, trí nhớ, tư duy logic trừu tượng đóng vai trò chủ đạo, khả năng phân tích tổng hợp, chú ý chủ định.
Đời sống tình cảm không ổn định, thất thường, xuất hiện tình cảm khác giới mang tính ý thức.
Mang khuynh hướng nổi loạn muốn làm người lớn (hoạt động tích cực để chứng tỏ, chống đối để bảo vệ ý kiến). Đồng thời giai đoạn này sẽ gặp khủng hoảng tâm lý do bước vào độ tuổi bắt đầu dậy thì. Sự phát triển nhân cách phát triển về ý chí và sự tự ý thức.
Về mặt xã hội các em bắt đầu có sự giao tiếp rộng hơn, nhiều mối quan hệ bạn bè, thích tham gia các hoạt động tập thể. Muốn thể hiện bản thân thông qua thành tích học tập.
Độ tuổi đầu thanh niên từ 15-18 tuổi có những thay đổi về sinh lý: Đây là thời kỳ nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng cơ thể chậm lại dần tiến tới ổn định. Hệ thần kinh phức tạp hơn về cấu tạo và chức năng. Phát triển dần hoàn thiện về tư duy, ngôn ngữ và phẩm chất ý chí. Giới tính đi vào ổn định, quá trình phát dục không ổn định, có cảm giác sợ hãi và so sánh với các bạn cùng tuổi.


Đặc điểm tâm lý cơ bản:
Sự phát triển các quá trình nhận thức: tri giác phát triển có mục đích, chịu sự điều khiển của tín hiệu ngôn ngữ nhưng dễ phân tán, vội vàng. Trí nhớ chủ định phát triển, ngôn ngữ hoàn thiện, sự chú ý (biết lựa chọn, phân phối chú ý). Tư duy phát triển theo hướng độc lập, sáng tạo nhưng vẫn mang sự cảm tính.  Đã phát triển tưởng tượng tái tạo và sáng tạo mang màu sắc cảm xúc.
Đời sống tình cảm: thể hiện tính tự lập, hướng đến bạn bè. Phát triển tình cảm đạo đức, thẩm mỹ. Xuất hiện tình cảm, tình yêu nam nữ.
Bắt đầu hình thành sự tự ý thức, thế giới quan và lên kế hoạch cho cuộc sống của mình, lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai và nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu. Ở lứa tuổi này thường thích tham gia nhiều hoạt động xã hội, biết bày tỏ quan điểm một cách rõ ràng và luôn bảo vệ ý kiến của bản thân. Đồng thời lứa tuổi đầu thabh niên thì nhu cầu trong giao tiếp tăng cao, có xu hướng độc lập, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm trong hành vi và luôn thể hiện là người lớn (nhưng thực tế trong nhiều tình huống vẫn cư xử mang tính trẻ con).
Trong những năm qua đã có một số văn bản cụ thể để hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục giới tính, tình dục một cách chính thức. Tuy nhiên, nội dung này không triển khai một cách riêng rẽ mà được lồng ghép vào với một số chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên và phòng chống đại dịch HIV/AIDS. Trong đó, một số văn bản cụ thể:
Chỉ thị 176A ngày 24/12/1984 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng nêu rõ “Bộ giáo dục, Vụ đại học và trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức liên quan xây dựng chương trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức khoa học về giới tính, hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái…”
Nghị định số: 104/2003/NĐ-CP ban hành Ngày 16 tháng 9 năm 2003. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số ngày 09 tháng 01 năm 2003; trong nghị định quy định một số điều khoản về chăm sóc sức khỏe sinh sản có lồng ghép nội dung giới tính và tình dục (hôn nhân, sinh sản...).
Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg của thủ tướng chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 2008 “V/v tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình” đã xác định nhiệm vụ của Bộ giáo dục và đào tạo là triển khai có hiệu quả hoạt động giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản, giới và giới tính trong nhà trường.
Quyết định số 136/2000/QĐ-TTg của Chính phủ : Về việc phê duyệt "Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010" quy định cụ thể cho các tổ chức liên quan (y tế, giáo dục, …) triển khai hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản, tuyên truyền các biện pháp tránh thai,… tới các đối tượng phụ nữ, vị thành niên, thanh niên, ưu tiên các đối tượng này ở vùng sâu, vùng cao.
Quyết định số 704/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : V/v phê duyệt Đề án Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy con tốt (giai đoạn 2010-2015). Trong quyết định có nhấn mạnh tới việc các bà mẹ giáo dục cho con cái về giới tính, tình dục và sức khỏe sinh sản, cách phòng tránh xâm hại tình dục, …Đây được coi là một văn bản có quy định rõ rằng về việc phụ huynh giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên đang được triển khai hiện nay.
Quyết định Số: 2013/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2011 phê duyệt chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Chiến lược này chú trọng vào giảm tỷ lệ phá thai, loại trừ các hình thức nạo phá thai không an toàn, các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, lây truyền qua đường tình dục, ngăn ngừa hiện trạng có thai ngoài ý muốn, chú trọng cải thiện chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và nhất là một số nhóm xã hội đặc thù như: người khuyết tật, người nhiễm HIV,….
Ngoài ra, còn một số loại văn bản khác như: Quyết định 170/2007/Qđ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủvề Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình giaiđoạn 2006 – 2010; Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ vềviệc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình; Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 nămthực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tụcđẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình,….
          Trên đây là một số văn bản pháp luật giúp định hướng công tác giáo dục giới tính và tình dục trong những năm qua. Qua đó, có thể thấy Đảng và Nhà nước đã và đang rất quan tâm tới vấn đề giáo dục giới tính và tình dục cho các đối tượng trong đó có thanh thiếu niên.

























          Như vậy, trong chương I người nghiên cứu đã trình bày lịch sử của vấn đề nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà còn của quốc tế. Đồng thời người nghiên cứu đã nêu ra và phân tích một số khái niệm cơ bản có liên quan, những văn bản pháp luật thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến vấn đề nghiên cứu.
          Tuy nhiên, về phần văn bản pháp luật thì hiện chưa có văn bản nào quy định riêng cho vấn đề giáo dục giới tính, tình dục mà chủ yếu vẫn được lồng ghép trong một số chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình và các chương trình khác.
          Từ việc người nghiên cứu phân tích các khái niệm và văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề giới tính, tình dục, giáo dục giới tính và tình dục. Đây sẽ là cơ sở cho người nghiên cứu điều tra, phân tích và đánh giá được ảnh hưởng của một số yếu tố tới công tác giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên tại thôn Đức Đại – thị trấn Gia Lộc – huyện Gia Lộc – tỉnh Hải Dương.















Thôn Đức Đại thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc với dân số 1.494 người, mật độ 102 nguời/km2. Có vị trí địa lý: Phía bắc giáp thôn Hội Xuyên, phía nam giáp thôn Phương Điếm. Diện tích đất tự nhiên: 97.2 ha. Bình quân đất canh tác: 0.95ha/khẩu. Chủ yếu là đất nông nghiệp, màu mỡ, lại bằng phẳng thuận lợi cho trồng lúa và hoa màu. Người dân thôn Đức Đại chủ yếu là sản xuất nông nghiệp với trồng lúa và các loại rau củ như: Củ đậu, tỏi, ớt, một số hộ có kinh doanh với quy mô hộ gia đình. Ngoài ra, ở đây một số hộ còn phát triển nghề làm hương mang lại lợi ích kinh tế cao, một số hộ làm xẻ gỗ, trạm khắc, kinh doanh dịch vụ: nhà hàng, quán net, may…. Chính những điều này đã làm cho người dân trong thôn có mức sống ổn định,  nhiều hộ khá và giàu.
Văn hóa xã hội: Kinh tế hộ gia đình phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Các phong trào văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, xây dựng đời sống văn hóa được tổ chức trong quần chúng nhân dân. Trên địa bàn có khá nhiều các của hàng kinh doanh quán net là nơi tập trung nhiều thanh thiếu niên ở mọi lứa tuổi, dẫn đến tình trạng nghiện game, bỏ học.
Giáo dục: Các em trong độ tuổi đi học đều được tới trường. Tuy nhiên một số trường hợp bỏ học giữa chừng với lý do học kém, trong đó có nhiều em học cấp III nghỉ học vì lý do có thai ngoài ý muốn.
Về y tế: Việc chăm sóc sức khỏe đời sống nhân dân ngày càng được quan tâm vì địa bàn thôn gần trụ sở y tế, bệnh viện đa khoa huyện.
Về công tác xã hội và hoạt động của các tổ chức xã hội: Trong thôn đã thành lập các tổ chức đoàn thể và đi vào hoạt động đạt những thành tích tốt, bao gồm: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên…
          Khách thể nghiên cứu được tác giả lựa chọn là 103 thanh thiếu niên, 30 phụ huynh thanh thiếu niên, 6 cán bộ đoàn thể (cán bộ Đoàn thanh niên, cán bộ Hội phụ nữ, cán bộ cơ sở y tế) trong thôn Đức Đại, 8 giáo viên giảng dạy trong hai trường trung học cơ sở và trung học phổ thông trên địa bàn huyện Gia Lộc.
          Bảng 2: Cơ cấu mẫu điều tra:
-         Thanh thiếu niên

Tiêu chí
Thanh
thiếu niên
Giới tính
Tổng
Lớp
Nam
Nữ    

6
7
8
9
10
11
12
Độ tuổi 12-14 tuổi (người)
25
25
50
10
10
15
15



Độ tuổi 15-18 tuổi (người)
26
27
53




15
19
19
Tổng (người)
51
52
103
50
53
Tỷ lệ ( %)
49.5
50.5

20
20
30
30
28
36
36
100
100
100













-         Phụ huynh thanh thiếu niên:

Tiêu chí
Phụ huynh
Thanh thiếu niên
Giới tính
Tổng
Lớp
Nam
Nữ    

6
7
8
9
10
11
12
Độ tuổi 12-14 tuổi (người)
7
7
14
3
3
4
4



Độ tuổi 15-18 tuổi (người)
8
8
16




5
5
6
Tổng (người)
15
15
30
14
16
Tỷ lệ ( %)
50
50

21
21
29
29
31
31
38
100
100
100














-         Thầy, cô giáo các trường:

Tiêu chí
Giáo viên
(người)
Giới tính
Tổng
Giáo viên trong Ban giám hiệu
Giáo viên bộ môn
Nam
Nữ
Trung học cơ sở
2
2
4
1
3
Trung học phổ thông
2
2
4
1
3
Tổng (người)
4
4
8
2
6
Tỷ lệ ( %)
50
50
100
25
75

- Cán bộ đoàn thể thực hiện chọn mẫu 6 người để điều tra trong đó: 2 cán bộ Đoàn thanh niên, 2 cán bộ hội phụ nữ, 2 cán bộ y tế.
          Để phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn Đức Đại người nghiên cứu đi sâu phân tích 3 nội dung cụ thể:
v    Nội dung trong giáo dục giới tính, tình dục.
v    Biện pháp, cách thức giáo dục giới tính, tình dục.
v    Thái độ trong giáo dục giới tính, tình dục.
          Thông qua phiếu hỏi phát cho 103 thanh thiếu niên trong thôn, người nghiên cứu thu về 100/103 phiếu đạt 97,08%. Người nghiên cứu nhận thấy một nửa trong số thanh thiếu niên được điều tra trong thôn đã hiểu đúng về khái niệm giới tính là “Những dấu hiệu khác nhau giữa nam và nữ về mặt sinh học (về cấu tạo cơ quan sinh dục, chức năng sinh đẻ, mang thai, về hình thể,…)”, số lượng này là 46 em trong tổng số 100 em (chiếm 46%). Tuy vậy, cũng còn nhiều em có nhận định sai lầm cụ thể:
          Trong tổng số 100 phiếu thu về thì có 25 em (chiếm 25%) cho rằng “giới tính” là những vai trò khác nhau của nam và nữ (ví dụ: nữ ở nhà chăm con, nam làm giám đốc,..) đây là số lượng chưa thực sự hiểu rõ về khái niệm giới tính. Có 29 em (chiếm 29%) trong tổng số 100 em tham gia trả lời cho rằng “giới tính” bao gồm cả những dấu hiệu phân biệt giữa nam, nữ và những vai trò khác nhau của họ, số các thanh thiếu niên này thì đã hiểu nhưng vẫn nhầm lẫn giữa khái niệm giới và giới tính. Như vậy có thể thấy, số lượng thanh thiếu niên chưa thực sự có hiểu rõ, hiểu đúng về khái niệm giới tính còn chiếm khá đông.
          Tất cả 100 thanh thiếu niên trong phiếu điều tra được phát đều trả lời đúng về quan hệ tình dục đó là sự giao hợp giữa nam và nữ, điều này cho thấy hầu hết các em đều hiểu biết về quan hệ tình dục. Hơn nữa, đại đa số thanh thiếu niên được hỏi đều đồng ý rằng không nên quan hệ vì ảnh hưởng sức khỏe và học tập.

Bảng 3: So sánh quan điểm của thanh thiếu niên về quan hệ tình dục khi còn là học sinh theo độ tuổi

Tuổi mã hóa
12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi
Total
Count
Column N %
Count
Column N %
Count
Column N %
Quan điểm về quan hệ tình dục khi còn là học sinh
Không nên quan hệ
28
80.0%
41
63.1%
69
69.0%
Học tập ảnh hưởng, sức khỏe giảm
20
57.1%
23
35.4%
43
43.0%
Bình thường
0
.0%
17
26.2%
17
17.0%
Không quan tâm
7
20.0%
6
9.2%
13
13.0%
Tạo động lực, hứng thú khi học tập
0
.0%
11
16.9%
11
11.0%
Điều tất
Nhiên khi yêu
0
.0%
1
1.5%
1
1.0%
Total
35

65

100




Biểu đồ 1:  thể hiện quan điểm của thanh thiếu niên về quan hệ tình dục khi còn là học sinh
                             (Nguồn: từ số liệu điều tra, phỏng vấn)
          Qua biểu đồ và bảng cho thấy số lượng thanh thiếu niên cho rằng không nên quan hệ tình dục là khá lớn chiếm 69% trong tổng số tham gia trả lời. Số lượng các em cho rằng không nên quan hệ ở nhóm 12-14 tuổi là 28 em, ở nhóm tuổi 15-18 là 41 em, đồng thời với đó thì một nửa trong số thanh thiếu niên cho rằng không nên có quan hệ vì sẽ ảnh hưởng tới việc học tập, sức khỏe số lượng chiếm 43%.
          Đồng thời quan điểm về quan hệ tình dục khi còn là học sinh giữa các nhóm tuổi cũng khác nhau: Nhóm tuổi từ 12-14 tuổi có 35 em (trong tổng số 100 thanh thiếu niên được điều tra) thì 7 em không quan tâm tới việc đó, số lượng này ở nhóm 15-18 tuổi là 6 em. Tuy nhiên, có một số thanh thiếu niên ở nhóm tuổi 15- 18 tuổi lại có sự biến đổi về suy nghĩ, cụ thể: trong 65 em thì có tới 17 em cho rằng có quan hệ tình dục khi còn là học sinh cũng bình thường, số này ở nhóm tuổi 12-14 là không có. Trong độ tuổi này có 1 em cho rằng đó là tất yếu khi đã yêu, đồng thời với đó là 11 em cho rằng quan hệ tình dục khi còn là học sinh sẽ tạo động lực thúc đẩy các em học tập tốt hơn. Trong khi những điều này ở độ tuổi 12-14 là không có.
          Như vậy có thể thấy quan điểm về quan hệ tình dục khi còn là học sinh ở mỗi nhóm tuổi là khác nhau, và có sự thay đổi ở các lứa tuổi lớn hơn, khi các em hoàn thiện hơn về mặt tri thức. Tuy vậy, những nhận thức mới ấy sẽ có những hệ quả thế nào còn chịu sự ảnh hưởng từ các yếu tố khác.
giới tính, tình dục theo giới tính của thanh thiếu niên

                                           Tiêu chí

Nội dung
Giới tính
Nam
Nữ
Total
Count
Row N %
Count
Row N %
Count
Row N %
Những nội dung thuộc giáo dục giới tính tình dục
Những dấu hiệu khác nhau giữa nam và nữ
17
51.5%
16
48.5%
33
100%
Những biểu hiện của tuổi dậy thì
29
52.7%
26
47.3%
55
100%
Cách chăm sóc, vệ sinh thân thể khi bước vào tuổi dậy thì
40
50.0%
40
50.0%
80
100%
Quan hệ tình dục, cách phòng tránh thai
12
50.0%
12
50.0%
24
100%
Các bệnh sinh dục thường gặp và cách chữa
7
38.9%
11
61.1%
18
100%
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
6
75.0%
2
25.0%
8
100%
Tất cả các phương án trên
9
64.3%
5
35.7%
14
100%
         
Qua bảng so sánh cho thấy: Chỉ có 14 em chọn phương án tất cả, nghĩa là chỉ có 14 em hiểu rõ giáo dục giới tính, tình dục cung cấp những nội dung gì. Trong đó nam có tới 9 em đạt tỷ lệ 64.3% chiếm gần 2/3 trong tổng số 14 em tham gia chọn phương án tất cả, nữ chỉ có 5 em chiếm 35.7%.
          Chỉ có rất ít em cho rằng giáo dục giới tính, tình dục cung cấp các kiến thức về các bệnh sinh dục chỉ có 18 em tương ứng với 18%, các bệnh lây truyền qua đường tình dục chỉ có 8 em lựa chọn tương ứng với 8% trong 100 thanh thiếu niên được điều tra.
          Vấn đề tình dục và cách phòng tránh thai là một trong những nội dung quan trọng của chương trình giáo dục giới tính, tình dục nhưng chỉ có 24 em lựa chọn trong số 100 em được phát phiếu. Điều này cho thấy vấn đề này chưa thực sự đến với thanh thiếu niên.
          Đại đa số các em đều cho rằng nội dung của giáo dục giới tính, tình dục cung cấp những biểu hiện với 55 thanh thiếu niên lựa chọn và cách chăm sóc thân thể khi bước vào tuổi dậy thì là 80 em. Có 33 em cho rằng giáo dục giới tính, tình dục còn cung cấp kiến thức về các dấu hiệu khác nhau giữa nam và nữ.
Như vậy có thể thấy trong sự lựa chọn của thanh thiếu niên vẫn chịu ảnh hưởng chủ quan, bởi lứa tuổi các em đang trong giai đoạn dậy thì nên những nội dung về biểu hiện và cách chăm sóc bản thân khi dậy thì được đại đa số các em lựa chọn, có sự kết luận này người nghiên cứu đưa ra khi tiến hành phỏng vấn sâu với thanh thiếu niên. Điều này cũng phù hợp với việc các em lựa chọn những nội dung giới tính, tình dục quan tâm.

thanh thiếu niên quan tâm

Tuổi mã hóa
12 - 14 tuổi
15 – 18 tuổi
Count
Table N %
Count
Table N %
Nội dung giới tính, tình
dục quan tâm nhất
Những biểu hiện của tuổi dậy thì.
20
20.0%
20
20.0%
Cách chăm sóc, vệ sinh thân thể khi bước vào tuổi dậy thì.
35
35.0%
52
52.0%
Quan hệ tình dục, cách phòng tránh thai
1
1.0%
13
13.0%
Các bệnh sinh dục thường gặp và cách chữa.
14
14.0%
17
17.0%
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
0
.0%
16
16.0%
Ý kiến của bạn
0
.0%
2
2.0%
Total
35

65

          Biểu đồ 2: thể hiện những nội dung giới tính, tình dục thanh thiếu niên quan tâm.          (Nguồn: số liệu điều tra)
          Qua bảng và biểu đồ có thể thấy hai nội dung được thanh thiếu niên hai nhóm tuổi quan tâm là những biểu hiện (40% ở hai nhóm) và cách chăm sóc bản thân khi dậy thì (52 em tương ứng 52% ở nhóm 15-18 tuổi, 35 em chiếm 35% nhóm 12-14 tuổi), các bệnh sinh dục và cách chữa 14% và 17%. Các nội dung về quan hệ tình dục, cách phòng tránh thai và các bênh lây truyền qua đường tình dục chỉ có các em ở nhóm tuổi 15-18 quan tâm còn nhóm 12-14 tuổi thì không 13% và 16% so với 1% và 0%, (tương ứng với 13 và 16 em so với 1 và 0 em).
Như vậy có thể thấy, đại đa số thanh thiếu niên đã có những hiểu biết cơ bản về giới tính, tình dục nhưng bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận các em hiểu sai. Sự sai lệch này nguyên nhân do thông tin thu nhận của các em không bắt đầu từ những nguồn xác thực.

Bảng 6: Thanh thiếu niên tìm hiểu giới tính, tình dục qua các nguồn


Giới tính
Tuổi mã hóa


Nam
Nữ
12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Tìm thông tin từ
Bố mẹ
31
31.0%
35
35.0%
26
26.0%
40
40.0%
Bạn bè
15
15.0%
10
10.0%
8
8.0%
17
17.0%
Truyền thông internet, báo…
30
30.0%
31
31.0%
21
21.0%
40
40.0%
Thầy cô giáo
2
2.0%
2
2.0%
4
4.0%
0
.0%
Khác
0
.0%
0
.0%
0
.0%
0
.0%
Total
51
51.0%
49
49.0%
35
35.0%
65
65.0%
         
          Trong 100 thanh thiếu niên tham gia trả lời thì hai nguồn cung cấp thông tin chính của các em là phụ huynh và truyền thông cụ thể: có 66 em tìm nguồn thông tin từ bố mẹ trong đó số em nữ nhiều hơn nam (35% so với 31%), nhưng cũng gần bằng chừng ấy 61 em tìm thông tin từ truyền thông (báo, đài, internet…), một số em được phỏng vấn sâu thì cho rằng tuy là hai nguồn chính nhưng thực sự thông tin thu nhận được cũng chỉ ở một mức độ nhất định bởi có nhiều câu hỏi thắc mắc phụ huynh cũng không giải thích rõ mà trên internet, báo,…thì lại quá nhiều luồng thông tin mà mức độ tin cậy theo các em thì chỉ là 70%, có rất ít các em, trong đó chỉ có nhóm tuổi 12-14 tìm thông tin từ giáo viên của mình, bởi một rào cản là ngại ngùng. Đặc biệt có tới 25 em tìm nguồn thông tin từ bạn bè, trong đó các em nam nhiều hơn nữ (15 em nam so với 10 em nữ). Điều này phù hợp với đặc điểm về mặt xã hội của thanh thiếu niên là hướng tới bạn bè.
          Ngoài ra, trong quá trình phỏng vấn sâu với thanh thiếu niên ở hai nhóm 12-14 và 15-18 tuổi về các nội dung như: quan điểm về hành vi thủ dâm, quan hệ tình dục an toàn, không an toàn, hiện trạng nạo phá thai vị thành niên hiện nay, cụ thể:
Các em ở mỗi nhóm tuổi lại có những quan điểm khác nhau cụ thể: các em ở nhóm tuổi 12-14 không biết về hành vi thủ dâm trong khi các em nhóm tuổi 15-18 có 5 em không biết về hành vi đó, 5 em cho rằng đó (theo thông tin các em tìm hiểu trên internet) đó là hành vi tự thỏa mãn xúc cảm tình dục như: Đụng chạm hoặc sử dụng các dụng cụ kích thích vào bộ phận sinh dục, các bộ phận khác, … hành vi không tốt lý do là nếu bị người khác phát hiện thì sẽ xấu hổ, ngại ngùng…. Như vậy có thể thấy còn nhiều thanh thiếu niên chưa hiểu về thủ dâm. Mà theo hiểu biết của người nghiên cứu thì hành vi này nếu thực hiện đúng, đủ sẽ giúp giảm ức chế thần kinh và xúc cảm của con người, ngược lại khi thực hiện liên tục hành vi này sẽ làm cho con người hao tổn sức khỏe, tinh thần mệt mỏi và trở thành một loại bệnh “nghiện thủ dâm”. Điều này đòi hỏi sự chú trọng hơn công tác giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên.
Quan điểm về quan hệ tình dục an toàn và không an toàn: Nhóm tuổi 12-14 đều cho rằng không nên quan hệ tình dục khi được hỏi về điều này, và lý do các em đưa ra là ảnh hưởng sức khỏe, học tập. Chỉ có 4 em ở độ tuổi 14 biết về quan hệ tình dục an toàn và không an toàn do được học trong sách sinh học lớp 8. Các em ở độ tuổi 12, 13 thì không biết về điều này. Quan điểm này ở nhóm tuổi 15-18 thì các em đều biết về quan hệ tình dục an toàn và không an toàn nhưng chưa hiểu hết. Điều này đã cho thấy sự thiếu hụt trong công tác giáo dục giới tính, tình dục.
Quan điểm về nạo phá thai vị thành niên: Các em ở hai nhóm tuổi cho biết có nghe nói về vấn đề này và đồng quan điểm rằng không nên thực hiện vì nguy hiểm tới tính mạng, chỉ có 3 em ở nhóm tuổi 12 là biết và không có điều kiện tìm hiểu về vấn đề này. Các em đều cho rằng vấn đề này cần được giáo dục từ gia đình hoặc nhà trường để phòng tránh.
Qua những phân tích nêu trên có thể thấy hầu hết thanh thiếu niên đã có kiến thức và hiểu biết phần nào về giới tính, tình dục song vẫn còn nhiều hạn chế. Và hầu hết các em đều mong muốn được giáo dục thêm từ phía nhà trường, gia đình.
          Trong số 100 thanh thiếu niên được phát phiếu điều tra thì có 82 em có ý kiến là bố mẹ có chia sẻ, trao đổi về giới tính, tình dục và có 18 em cho rằng bố mẹ không làm điều đó. Như vậy, theo trả lời của các em thì đại đa số các bậc phụ huynh (số lượng chiếm tới 82%) đều đã chia sẻ và trao đổi với con cái về vấn đề giới tính, tình dục. Tuy nhiên, vẫn có một số thanh thiếu niên cho rằng cha mẹ không trao đổi vấn đề đó, tỷ lệ tuy không nhiều chỉ chiếm 18%, nhưng như vậy cũng cho thấy vẫn có một bộ phận cha mẹ chưa thực sự quan tâm trong vấn đề giáo dục giới tính, tình dục cho con.
Theo nhóm các thanh thiếu niên cho rằng phụ huynh có trao đổi thì những nội dung nào chia sẻ, điều này được thể hiện qua hai bảng sau:
         
Bảng 7: So sánh về những nội dung cha mẹ chia sẻ
với thanh thiếu niên theo giới tính

giới tính
Nam
nữ
Total
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Nội dung cha mẹ chia sẻ
Những biểu hiện khác nhau giữa nam, nữ, của tuổi dậy thì.
10
12.2%
7
8.5%
17
20.7%
 Cách chăm sóc, vệ sinh thân thể khi bước vào tuổi dậy thì.
40
48.8%
42
51.2%
82
100.0%
Quan hệ tình dục, cách phòng tránh thai
8
9.8%
7
8.5%
15
18.3%
Các bệnh sinh dục thường gặp và cách chữa.
9
11.0%
9
11.0%
18
22.0%
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
5
6.1%
8
9.8%
13
15.9%
Ý kiến của bạn
10
12.2%
13
15.9%
23
28.0%

Bảng 8: Trả lời của phụ huynh về những nội dung giới tính, tình dục
phụ huynh chia sẻ với con theo giới tính


Giới tính


Nữ
Nam


Count
Table N %
Count
Table N %
Nội dung hay chia sẻ với con
Những biểu hiện khác nhau giữa nam, nữ, của tuổi dậy thì.
5
23.8%
1
4.8%
 Cách chăm sóc, vệ sinh thân thể khi bước vào tuổi dậy thì.
12
57.1%
9
42.9%
Quan hệ tình dục, cách phòng tránh thai
5
23.8%
3
14.3%
Các bệnh sinh dục thường gặp và cách chữa.
3
14.3%
3
14.3%
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
5
23.8%
0
.0%
Ý khác
3
14.3%
1
4.8%

Qua hai bảng so sánh có thể thấy, sự thống nhất trong câu trả lời của thanh thiếu niên và phụ huynh về các nội dung chia sẻ và trao đổi chủ yếu là: về cách chăm sóc bản thân khi bước vào độ tuổi dậy thì. Số lượng này là 82 em trong đó nam có 40 em và nữ 42 em, nội dung về quan hệ tình dục và cách phòng tránh thai cũng được các phụ huynh trao đổi có 15 em có ý kiến này, các bệnh sinh dục và cách chữa cũng như các bệnh lây truyền lần lượt là 18 và 13 em.  Như vậy có thể thấy các phụ huynh đã trao đổi với con cái khá nhiều nội dung về giới tính, tình dục. Có 23 em có ý kiến khác theo tổng hợp của người nghiên cứu thì trong đó có 18 em cho rằng bố mẹ trao đổi về quan hệ tình yêu nam nữ (các em ghi là sự thích nhau giữa con trai và con gái) và thông qua phỏng vấn sâu với một số em có lựa chọn đó thì các em đều trả lời rằng: Bố mẹ chủ yếu là khuyên nhủ, nhắc nhở chú tâm vào học tập, không được có chuyện yêu đương, một số em còn nói, bố mẹ sẽ đánh, cho nghỉ học nếu có chuyện yêu đương đó.
Về mặt phương pháp mà phụ huynh chia sẻ thì theo thanh thiếu niên được thể hiện rõ trong hai bảng sau:


Phương pháp cha mẹ trao đổi về giới tính, tình dục
Kể chuyện, tâm sự
Mua sách cho con tự đọc
Trao đổi các tình huống
Ý bạn


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Tuổi mã hóa
12 - 14 tuổi
14
17.1%
11
13.4%
4
4.9%
6
7.3%
15 - 18 tuổi
25
30.5%
17
20.7%
15
18.3%
5
6.1%
Giới tính
Nam
19
23.2%
15
18.3%
8
9.8%
6
7.3%
nữ
20
24.4%
13
15.9%
11
13.4%
5
6.1%
         

Biểu đồ 3: thể hiện các phương pháp cha mẹ sử dụng khi trao đổi, chia sẻ với con về giới tính, tình dục theo nhóm tuổi.
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Qua bảng, biểu đồ trên có thể thấy không có sự khác biệt trong phương pháp mà cha mẹ trao đổi với con theo giới tính và độ tuổi. Hai phương pháp chính mà thanh thiếu niên cho rằng cha mẹ sử dụng khi trao đổi, chia sẻ về giới tính, tình dục với con cái là kể chuyện, tâm sự tỷ lệ là 17.1% nhóm tuổi 12-14 và 30.5% nhóm tuổi 15-18 (tương ứng 14 và 25 thanh thiếu niên lựa chọn) và mua sách cho con tự đọc là 17 và 11 thanh thiếu niên (tương ứng tỷ lệ 13.4% nhóm tuổi 12-14 và 20.7% nhóm tuổi 15-18). Phương pháp trao đổi tình huống thì ít hơn nhưng theo kết quả điều tra cũng có tới 19 phụ huynh trong đó nhóm tuổi 12-14 có 4 phụ huynh chiếm 4.9 %, nhóm tuổi 12-18 là 15 phụ huynh chiếm 18.3%. Kết quả này so sánh với trả lời của phụ huynh là khá phù hợp, được thể hiện qua bảng, cụ thể:

Bảng 10: Kết quả điều tra phương pháp phụ huynh áp dụng khi trò chuyện, chia sẻ với con về giới tính, tình dục


Dạy con về giới tính, tình dục


Không


Count
Table N %
Count
Table N %
Phương pháp
Trò chuyện, tâm sự
11
36.7%
0
.0%
Mua sách báo cho con tự đọc
21
70.0%
9
30.0%
Trao đổi tình huống
7
23.3%
0
0%
Khác
0
.0%
0
.0%

Qua bảng trên có thể thấy đối với các phụ huynh cho rằng mình có dạy con về giới tính thì hai phương pháp chính được áp dụng đó là mua sách báo với 21 câu trả lời chiếm 70% và trò chuyện, tâm sự là 11 người chiếm 36.7% trong tổng số 30 phụ huynh tham gia trả lời. Những phụ huynh cho rằng mình không dạy con cái về giới tính, tình dục nhưng lại có tới 9 phụ huynh trả lời rằng mình mua sách báo cho con tự đọc. Điều này có vẻ mâu thuẫn với nhau, nhưng khi người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu thì nhận được câu trả lời của các phụ huynh đó là: “tôi cho rằng mua sách báo cho con tự đọc không phải là một hình thức giáo dục”. Từ đó có thể thấy họ đã nhận thức được việc giáo dục giới tính, tình dục cho con nhưng những phương pháp mà họ vận dụng còn nghèo nàn. Hơn nữa thái độ khi họ giao tiếp với con cái cũng có phần hạn chế cụ thể:
Bảng 11: So sánh trả lời của thanh thiếu niên về khó khăn khi chia sẻ, trao đổi với phụ huynh theo độ tuổi và giới tính

Khó khăn khi chia sẻ, trao đổi với phụ huynh
Ngại ngùng,
 khó nói
Thái độ thờ ơ, lảng tránh
Thái độ
 gắt gỏng
Ý bạn
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Tuổi mã hóa
12 - 14 tuổi
23
23.0%
9
9.0%
11
11.0%
0
.0%
15 - 18 tuổi
64
64.0%
9
9.0%
18
18.0%
0
.0%
Giới tính
Nam
43
43.0%
12
12.0%
16
16.0%
0
.0%
Nữ
44
44.0%
6
6.0%
13
13.0%
0
.0%
Qua bảng trả lời của thanh thiếu niên thì 87% các em cho rằng rào cản lớn nhất khi các em muốn trao đổi, chia sẻ với phụ huynh về giới tính, tình dục đó chính là sự ngại ngùng, khó nói. Và càng ở độ tuổi lớn hơn thì sự ngại ngùng đó lại càng tăng lên biểu hiện là 64% các em ở độ tuổi 15-18 dù có hay không chia sẻ với cha mẹ đều chọn lý do là ngại ngùng, khó nói vấn đề. Điều này trùng hợp với kết quả trả lời của 30 phụ huynh (đạt 100%) tham gia trả lời bảng hỏi.
          Nguyên nhân thứ hai khiến các em ít trao đổi với phụ huynh về giới tính, tình dục đó là vì thái độ gắt gỏng, quát mắng của phụ huynh. Tỷ lệ này chiếm 29% và cũng tăng lên theo độ tuổi, thông qua phỏng vấn sâu với các thanh thiếu niên độ tuổi 15-18 về điều này thì người nghiên cứu nhận được khá nhiều câu trả lời giống nhau từ các em đó là: Do chúng em lớn rồi có nhiều thắc mắc về tình yêu, quan hệ giữa nam và nữ, mà bố mẹ thì không thích cho con bàn về chuyện đó, phụ huynh nghĩ rằng nói cho chúng em biết thì sẽ làm hư chúng em, sợ học không tốt. Điều này phù hợp với sự trả lời của 36.7% phụ huynh (11 người) về khó khăn khi trao đổi với con vấn đề giới tính, tình dục chính là sợ làm hư con nên họ thường gắt gỏng, quát mắng để con cái không hỏi (điều này người nghiên cứu tổng hợp thông qua phỏng vấn sâu với phụ huynh).
          Có 18% các em cho rằng (tương ứng 18 em) khó khăn là vì thái độ thờ ơ, lảng tránh của phụ huynh, điều này làm cho các em ngày một ngại không muốn nói, thông qua phỏng vấn sâu với một số em người nghiên cứu tổng hợp lại thì các em đều nói: “Mỗi khi chúng em hỏi về tình yêu hay quan hệ thân mật nam nữ thì bố, mẹ tụi em đều lấy lý do là còn nhỏ không nên quan tâm tới vấn đề đó, hoặc là hẹn lần khác nói nhưng rồi chẳng bao giờ nhắc lại cả. Lâu dần tụi em cũng chán không muốn hỏi”.
          Để làm rõ điều mà các em chia sẻ thông qua phỏng vấn sâu với phụ huynh thì lý do mà người nghiên cứu nhận được từ trả lời của 15 phụ huynh chiếm 50% là vì sợ sẽ trả lời sai thì sẽ không tốt cho con, ảnh hưởng tới nhận thức của chúng.


Bảng 12: Kết quả trả lời của phụ huynh về khó khăn khi trao đổi, chia sẻ với con vấn đề giới tính, tình dục


Khó khăn khi trao đổi với con


Khó nói
Sợ sai
Sợ làm hư con
Khác


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Giới tính
Nữ
19
63.3%
10
33.3%
8
26.7%
0
.0%
Nam
11
36.7%
5
16.7%
3
10.0%
0
.0%
Nghề nghiệp
Nông dân
13
43.3%
6
20.0%
5
16.7%
0
.0%
Công nhân
4
13.3%
0
.0%
4
13.3%
0
.0%
Kinh doanh, buôn bán
9
30.0%
7
23.3%
2
6.7%
0
.0%
Khác
4
13.3%
2
6.7%
0
.0%
0
.0%
Chia sẻ tâm sự với con
21
70.0%
10
33.3%
9
30.0%
0
.0%
Không
9
30.0%
5
16.7%
2
6.7%
0
.0%

Qua bảng trên và qua phỏng vấn sâu với 10 phụ huynh thì người nghiên cứu thấy rằng các bà mẹ lại có nhiều khó khăn hơn các ông bố trong trao đổi với con cái. Đồng thời người nghiên cứu cũng thấy rằng nghề nghiệp của cha mẹ có ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên ở điểm: Những phụ huynh là nông dân, kinh doanh buôn bán thì thường ngại giáo dục con về giới tính vì sợ dạy sai và làm hư con. Còn những phụ huynh làm nghề khác thì đều nói rằng mình không có thời gian để dạy con và cũng sợ dạy sai vì cũng không hiểu về nội dung giáo dụng giới tính, điều này thể hiện qua bảng phân tích sau:



Bảng 13: Sự hiểu biết của phụ huynh về giáo dục giới tính, tình dục


Nghề nghiệp


Nông dân
Công nhân
Buôn bán, kinh doanh
Khác


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Hiểu giáo dục giới tính, tình dục
Sự khác nhau giữa nam nữ
7
23.3%
2
6.7%
3
10.0%
2
6.7%
Những biểu hiện tuổi dậy thì
4
13.3%
3
10.0%
6
20.0%
2
6.7%
Cách chăm sóc bản thân tuổi dậy thì
12
40.0%
4
13.3%
8
26.7%
4
13.3%
Tình yêu, hôn nhân
5
16.7%
1
3.3%
1
3.3%
1
3.3%
Các cách phòng tránh thai, bệnh lây truyền qua đường tình dục
2
6.7%
0
.0%
5
16.7%
0
.0%
Tất cả
0
.0%
0
.0%
0
.0%
0
.0%

          Qua bảng số liệu trên có thể thấy không có bậc phụ huynh nào hiểu rõ giáo dục giới tính, tình dục sẽ cung cấp những nội dung gì bằng chứng là không có phụ huynh nào chọn phương án tất cả. Ở mỗi nghề nghiệp thì các bậc phụ huynh lại có những suy nghĩ khác nhau, qua phỏng vấn sâu thì các phụ huynh là nông dân thì có nhiều thời gian nghe đài, xem tivi nên sự lựa chọn của họ đa dạng hơn về các nội dung của giáo dục giới tính, tình dục. Nhất là các bậc phụ huynh có nghề nghiệp là công nhân thì sự lựa chọn của họ ít nội dung hơn và chủ yếu là các nội dung mà con cái họ đang gặp đó là dấu hiệu và cách chăm sóc bản thân khi tuổi dậy thì. Các bậc phụ huynh làm nghề kinh doanh buôn bán thì có thể va chạm nhiều nên phương án về phòng tránh thai cũng được họ lưu tâm hơn các phụ huynh làm nghề khác. Điều đó sẽ giúp họ nhìn nhận thấy nhiều lợi ích của giáo dục giới tính, tình dục.

Bảng 14: Quan điểm của phụ huynh thanh thiếu niên về lợi ích của việc giáo dục con cái về giới tính, tình dục


Lợi ích


Không lúng túng
Hiểu bản thân
Tránh hậu quả đáng tiếc
Khác


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Có tâm sự chia sẻ với con
8
36.4%
16
72.7%
11
50.0%
0
0%
Không
0
.0%
0
.0%
2
9.1%
0
.0%

          Từ việc thường tâm sự chia sẻ với con thì các bậc phụ huynh đã nhận ra lợi ích của việc giáo dục giới tính, tình dục. Đại đa số các bậc phụ huynh đều cho rằng lợi ích của việc giáo dục đó sẽ giúp thanh thiếu niên hiểu rõ bản thân 72.7% trong tổng số phụ huynh và tránh được hậu quả đáng tiếc là 50% phụ huynh. Đặc biệt có 2 phụ huynh (chiếm 9.1%) dù không tâm sự chia sẻ với con nhưng vẫn thấy được lợi ích của việc giáo dục giới tính, tình dục là tránh được hậu quả đáng tiếc.
          Giáo dục trong gia đình thì cha mẹ là nhân tố chính nhưng bên cạnh đó các thành viên khác cũng có những ảnh hưởng nhất định. Theo nhận định của phụ huynh thì các thành viên khác hoặc là không, nếu có thì cũng chỉ ảnh hưởng rất ít. Điều này phù hợp với ý kiến của đại đa số thanh thiếu niên.
2.2. Yếu tố giáo dục trong nhà trường.
          Nếu gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của cá nhân thì nhà trường chính là nơi mà mỗi cá nhân thể hiện những gì đã học từ gia đình. Đây chính là nơi để cá nhân hoàn thiện về bản thân và tri thức. Đối với thanh thiếu niên thì đây là một môi trường va chạm và học hỏi chính. Ở đây các em được cung cấp kiến thức tổng hợp về các lĩnh vực: Toán, khoa học, lịch sử, ….đồng thời sẽ có cơ hội tăng cường giao tiếp và học hỏi từ các mối quan hệ.
          Giáo dục giới tính, tình dục trong nhà trường là một nhân tố quan trọng giúp các thanh thiếu niên phát triển nhận thức giới tính, sức khỏe tình dục để ứng phó với các tình huống trong đời sống. Vậy nhân tố này có tác động như thế nào theo quan niệm của thanh thiếu niên thôn Đức Đại và các thầy cô giáo của hai trường: trung học cơ sở Gia Lộc và trung học phổ thông Gia Lộc II sẽ được thể hiện rõ qua sự phân tích sau.
          Thứ nhất, ý kiến về việc nhà trường có các chương trình giáo dục về giới tính, tình dục cho học sinh thì: Qua phỏng vấn sâu với thầy cô trong ban giám hiệu và các thầy cô bộ môn thì người nghiên cứu nhận được các câu trả lời giống nhau là có và nội dung thường được lồng ghép vào các môn học như sinh, lý, thể dục, các buổi sinh hoạt lớp, ….so sánh với câu trả lời của học sinh thì phù hợp, 100% các em đều cho rằng nhà trường có các chương trình về giới tính, tình dục.

Bảng 15: Ý kiến của thanh thiếu niên về nội dung giáo dục giới tính, tình dục được giới thiệu tronsg nhà trường


Tuổi mã hóa


12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi


Count
Table N %
Count
Table N %
Nội dung giáo dục giới tính, tình dục được giới thiệu trong nhà trường
Biểu hiện tuổi dậy thì
14
14.0%
0
.0%
Cấu tạo cơ quan sinh dục nam, nữ
15
15.0%
0
.0%
Quan hệ tình yêu nam nữ
23
23.0%
62
62.0%
Quan hệ tình dục, các bệnh lây truyền qua đường tình dục
15
15.0%
49
49.0%
Khác
2
2.0%
17
17.0%

          Thứ hai,  về nội dung của các chương trình giáo dục giới tính, tình dục trong nhà trường theo các em ở mỗi độ tuổi khác nhau lại có những câu trả lời khác nhau, ở độ tuổi 12-14 có 14/35 em chiếm 14% thì trả lời rằng nhà trường có giáo dục về những biểu hiện tuổi dậy thì và cấu tạo cơ quan sinh dục, theo tổng hợp của người nghiên cứu thì chủ thể của sự lựa chọn này chủ yếu là các em độ tuổi 14 (có tới 12 em) vì môn sinh học lớp 8 có giới thiệu về điều này. Những nội dung này thì ở độ tuổi 15-18 không có em nào chọn. Qua phỏng vấn sâu về điều này thì các em nói rằng điều đó đã được học ở các lớp dưới nên các chương trình ở các khối lớp hiện tại là không được dạy.
          Nội dung về quan hệ nam nữ (sự thích nhau, tình yêu tuổi học sinh) được các thanh thiếu niên ở hai độ tuổi lựa chọn nhiều cụ thể nhóm 12-14 tuổi có 23 em (23%), nhóm 15-18 là 62 em (62%) trong tổng số 100 em tham gia trả lời. Thông qua phỏng vấn sâu với một số em thì người nghiên cứu nhận thấy sở dĩ có điều này là do: Hiện nay các em ở độ tuổi này thường có nhiều bạn thích nhau, yêu nhau thể hiện một cách công khai nên các thầy cô lo ngại và thường giáo dục cho học sinh “thích nhau cũng không phải không tốt nhưng tránh làm ảnh hưởng tới việc học tập và đi quá giới hạn”. Sự trả lời này so sánh với các câu trả lời của thầy cô giáo là hoàn toàn phù hợp. Các thầy cô cũng nhấn mạnh rằng hiện nay tình yêu của tuổi học trò ngày một hạ thấp về lứa tuổi, trước đây thì 17, 18 tuổi nói chuyện thích nhau còn ngại ngùng, bây giờ 13, 14 các em công khai thích nhau là chuyện không hiếm gặp. “Cá biệt có trường hợp thích nhau từ khi vẫn còn học bên tiểu học” (trích lời cô Lê Thị Ngân giáo viên môn sinh học lớp 7 trường trung học cơ sở Gia Lộc).      
          Từ những câu trả lời của thanh thiếu niên về nội dung quan hệ tình dục và các bệnh lây truyền qua đường tình dục thì 15 em độ tuổi 12-14 (15%) và 49 em độ tuổi 15-18 (49%). Thông qua phỏng vấn sâu với các em và thầy cô giáo về việc tại sao nội dung này lại được giới thiệu trong nhà trường thì có những câu trả lời trái ngược nhau giữa hai nhóm tuổi, sự trả lời này tương đồng với ý kiến của thầy cô giáo: Nhóm tuổi từ 12-14 thì cho rằng vì hiện nay tình yêu tuổi học sinh ngày một giảm về độ tuổi nên các thầy cô giáo lo lắng về việc các em sẽ có quan hệ tình dục sớm, để lại những hệ quả không đáng có. Vì vậy song song với việc nhắc nhở chuyện tình cảm giữa nam nữ với các em thì thầy cô giáo cũng nói thêm về vấn đề này. Còn đối với độ tuổi 15-18 thì lứa tuổi bắt đầu có xu hướng tăng về nhu cầu về tình dục, nếu không được giáo dục thì các em dễ bị cảm xúc chi phối sẽ có những hành động bồng bột như: Quan hệ tình dục vị thành niên, cưỡng dâm, …Và để tránh tình trạng này thì các thầy cô giáo nói thêm về vấn đề quan hệ tình dục và các bệnh lây truyền để các em có định hướng trong việc kiềm chế bản thân.

Bảng 16: Ý kiến của thanh thiếu niên về phương pháp giáo dục giới tính, tình dục trong nhà trường theo lứa tuổi


Tuổi mã hóa


12 – 14 tuổi
15 - 18 tuổi


Count
Table N %
Count
Table N %
Phương pháp giáo dục giới tính, tình dục
Phát tài liệu
0
.0%
0
.0%
Lồng ghép vào các môn học
23
23.0%
48
48.0%
Hoạt động ngoại khóa
12
12.0%
17
17.0%
Khác
0
.0%
0
.0%
         
Thứ ba, về phương pháp mà thầy cô giáo sử dụng trong việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên theo ý kiến của các nhóm tuổi là không có sự khác biệt, theo các thanh thiếu niên tham gia trả lời thì phương pháp chính là lồng ghép vào các môn học với số lượng là 71 em (chiếm 71%), trong đó cụ thể là các môn như: Sinh, lý, thể dục, công dân. Và 29 % các em cho rằng thông qua các hoạt động ngoại khóa như: Sinh hoạt lớp, các chương trình kỷ niệm phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Những phương pháp mà các em nêu ra cũng chính là điều mà các thầy cô chia sẻ khi người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu. Đồng thời, các thầy cô giáo còn nói thêm khi lồng ghép như vậy khiến giáo viên khó trong việc biên soạn nội dung giảng dạy chính và kèm những thông tin giới tính, tình dục vào thời điểm nào cho phù hợp. Lý do là vì kiến thức bộ môn nhiều, hơn nữa nội dung của giáo dục giới tính, tình dục cũng đa dạng, dẫn đến việc khó lựa chọn nội dung giới tính, tình dục để cung cấp cho học sinh.
          Như vậy có thể thấy các phương pháp giáo dục giới tính đã và đang được áp dụng kém đa dạng về hình thức nên không thu hút được sự tham gia của các em. Bởi khi lồng ghép vào các môn học thì thời lượng thường rất ít, chỉ là 5-10 phút, không nhiều để nói hết được các nội dung của giới tính, tình dục khiến thông tin thu nhận bị gián đoạn, gây khó hiểu cho các  em.
          Thứ tư, người nghiên cứu khi tổng hợp về việc học sinh có thường trao đổi với giới tính, tình dục với thầy cô không thì nhận được phản hồi từ thầy cô là ít, chỉ có một vài em. Câu trả lời của học sinh cũng vậy, chỉ có 4% học sinh nói rằng có trao đổi với thầy cô giáo, các em này đều ở nhóm tuổi 12-14, nội dung chính mà các em trao đổi với thầy cô giáo là về tình cảm giữa nam nữ, cách chăm sóc bản thân khi bước vào tuổi dậy thì. Còn lại 96 em tương ứng với 96% trong tổng số 100 em không bao giờ trao đổi với thầy cô. Lý do theo ý kiến của thầy cô giáo là: các em ngại hỏi vì sợ thầy cô giáo sẽ nghĩ không hay về mình, sợ bị thầy cô để ý. Điều đó trùng hợp với ý kiến của học sinh, ngoài ra các em còn cho biết thêm không muốn hỏi vì sợ thầy cô sẽ nói với bố mẹ. Hơn nữa các thầy cô còn cho biết: Khi nói về vấn đề giới tính, tình dục chính bản thân các thầy cô cũng có cảm giác ngại ngùng, nhưng khi học sinh hỏi thì vẫn sẵn sàng trả lời. Điều này cũng là nhận xét của các em có trao đổi với thầy cô giáo.
          Như vậy có thể thấy những điểm tích cực của giáo dục trong nhà trường nói chung và về vấn đề giới tính, tình dục nói riêng. Mặc dù đã có nhiều cải cách trong nội dung và phương thức cung cấp nhưng hiện tại kiến thức truyền tải đến với các em học sinh nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Người nghiên cứu thiết nghĩ bộ giáo dục nên biên soạn nội dung giới tính, tình dục thành một môn chính thức trong chương trình giáo dục. Chỉ có như vậy mới cung cấp một cách đầy đủ nhất thông tin chính thống cho thanh thiếu niên tiếp cận.
          Theo ý kiến cuả thanh thiếu niên tham gia trả lời câu hỏi thì có 84 thanh thiếu niên (chiếm 84%) cho rằng các thông tin giới tính, tình dục dễ tiếp cận trên truyền thông. Có 12 em không biết về điều này, 4 em cho rằng không dễ tiếp cận. Như vậy có thể thấy đại đa số các em đều nói rằng các thông tin dễ tiếp cận trên phương tiện truyền thông.
          Thứ hai, về nội dung được truyền tải trên các phương tiện truyền thông theo ý kiến của các em cũng có sự khác nhau về độ tuổi:

Bảng 17: Ý kiến của thanh thiếu niên về nội dung giới tính, tình dục trên truyền thông theo độ tuổi


Tuổi mã hóa


12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi


Count
Table N %
Count
Table N %
Nôi dung giới tính, tình dục trên truyền thông
Những biểu hiện tuổi dậy thì
3
3.5%
0
.0%
Cách chăm sóc bản thân khi dậy thì
14
16.3%
12
14.0%
Quan hệ tình dục
10
11.6%
25
29.1%
Các bệnh sinh dục
1
1.2%
5
5.8%
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
8
9.3%
14
16.3%
Tất cả
5
5.8%
37
43.0%
Các thanh thiếu niên ở nhóm tuổi 12-14 rất ít em cho rằng tất cả các thông tin về giới tính, tình dục có thể tiếp cận trên truyền thông chỉ có 5 em (chiếm 5.8%) trong khi tỷ lệ này ở độ tuổi 15-18 là 37 em (chiếm 43%). Các nội dung khác như: Cách chăm sóc bản thân khi dậy thì, quan hệ tình dục, các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng có khá nhiều em lựa chọn. Tuy vậy, nội dung bệnh sinh dục thì có rất ít thanh thiếu niên lựa chọn, lứa tuổi 12-14 chỉ có 1 em (chiếm 1.8%), nhóm tuổi 15-18 thì chỉ có 5 em (chiếm 5.8 %). Để đi sâu tìm hiểu về lý do tại sao nội dung này lại ít thanh thiếu niên lựa chọn người nghiên cứu đã phỏng vấn sâu và được sự chia sẻ của các em: Vì cũng ít khi nghe nói về loại bệnh này, chủ yếu được nghe về bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Về các hình thức cung cấp nội dung thì qua phỏng vấn sâu người nghiên cứu nhận được câu trả lời đòng nhất từ phía các em là qua các bài viết, có kèm theo hình ảnh, video.
          Về ảnh hưởng của các thông tin đăng tải trên truyền thông thì ở mỗi nhóm tuổi lại có những ý kiến khác nhau.

Bảng 18: Đánh giá của thanh thiếu niên sự ảnh hưởng của yếu tố truyền thông theo mức độ tiếp cận thông tin về giới tính, tình dục và nhóm tuổi

Ảnh hưởng của yếu tố truyền thông
Thuận lợi
Không tốt
Ý bạn
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Tuổi mã hóa
12 - 14 tuổi
13
13.0%
14
14.0%
8
8.0%
15 - 18 tuổi
25
25.0%
20
20.0%
20
20.0%
Thông tin giới tính, tình dục tiếp cận trên truyền thông
35
35.0%
28
28.0%
21
21.0%
Không
3
3.0%
1
1.0%
0
.0%
không biết
0
.0%
5
5.0%
7
7.0%
Trước hết không chỉ có những thanh thiếu niên cho rằng thông tin giới tính, tình dục dễ tiếp cận trên truyền thông thì có ảnh hưởng thuận lợi (35 em tương ứng với 35%) mà ngay cả những em thấy không dễ tiếp cận cũng cho rằng sẽ thuận lợi tỷ lệ này là 3 em (3%). Bên cạnh đó số lượng cho rằng ảnh hưởng không tốt cũng chiến tỷ lệ khá cao 34 em (chiếm 34%) trong đó những em cho rằng thông tin dễ tiếp cận lại có ảnh hưởng không tốt là 28% (28 thanh thiếu niên), thông tin không dễ tiếp cận là 1 em và không biết là 5 em (5%). 28 thanh thiếu niên có ý kiến khác thì cho rằng vừa có ảnh hưởng thuận lợi lại vừa không tốt. Điều này được các em lý giải khi người nghiên cứu phỏng vấn sâu: các em đều cho rằng có nhiều thông tin bổ ích nhưng bên cạnh đó cũng kèm theo những hình ảnh, video khêu gợi, không lành mạnh của các trang cung cấp khi vào tìm kiếm thông tin.
          Qua bảng số liệu trên có thể thấy ở mỗi nhóm tuổi cũng có sự khác nhau trong cách nhìn nhận ảnh hưởng của yếu tố truyền thông. Cả hai nhóm tuổi đều nhận thấy có những điểm không tốt trong sự ảnh hưởng của yếu tố này. Nhóm tuổi 15-18 có 20% các em có ý kiến khác: Thông qua phỏng vấn sâu với một số em thì người nghiên cứu thu được ý kiến: Các em cho rằng nửa thuận lợi nhưng lại không tốt mà mặt không tốt thì nhiều hơn, sở dĩ như vậy vì có quá nhiều luồng thông tin thừa, đồng thời lại có những hình ảnh gợi tính tò mò một cách không cần thiết.
          Theo quan điểm của thầy cô giáo thì yếu tố truyền thông có ảnh hưởng hai chiều tới việc tìm hiểu thông tin giới tính và tình dục của các em: Thứ nhất, mặt tích cực là giúp các em thu thập thông tin nhanh, không phải ngượng ngùng như khi trao đổi với thầy cô, bố mẹ. Nhưng cùng với đó lại có mặt không tốt vì có những luồng thông tin bị sai lệch mà nhất là về vấn đề tình dục, hiện có quá nhiều trang web sử dụng các hình ảnh “khêu gợi”, các “tiêu đề” gợi tính tò mò, lại cũng có những phim “18+”, video không lành mạnh, …khiến các em dễ bị nghiện “phim sex” làm ảnh hưởng tới sự phát triển nhận thức và hành vi tình dục của các em.
          Quan điểm của các bậc phụ huynh thì cho rằng thông tin truyền thông nhìn chung lợi ích thì ít mà tác hại thì nhiều: Thông tin thu thập được nhiều nhưng lại mất thời gian, mà các cháu sẽ sa đà vào “chát chít”, “yêu đương”  trên mạng, …lại xảy ra việc bắt cóc bán ra nước ngoài, hay mang thai khi vẫn còn đi học mà tivi hay đưa tin gần đây. Chính vì vậy họ kiểm soát con chặt chẽ khi muốn tìm thông tin trên internet, báo.
          Như vậy từ quan điểm của các chủ thể tham gia điều tra có thể kết luận rằng: yếu tố truyền thông không chỉ có ảnh hưởng thuận lợi là cung cấp thông tin nhanh chóng, tiện ích, dễ dàng mà còn có những tác động tiêu cực là thông tin sai lệch dẫn đến các hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên, làm gia tăng tình trạng quan hệ tình dục, mang thai và nạo phá thai vị thành niên. Điều này đặt ra cho các nhà quản lý văn hóa truyền thông phải coa biện pháp ngăn chặn các thông tin thiếu tính giáo dục đăng tải trên các phương tiện truyền thông.
          Theo ý kiến của 77 thanh thiếu niên (chiếm 77%) thì yếu tố giáo dục cộng đồng như: Hoạt động đoàn - hội phụ nữ - cơ sở y tế không có ảnh hưởng gì nhiều tới hiểu biết về giới tính, tình dục của các em. Còn lại 33 em chiếm 33 % trong 100 thanh thiếu niên tham gia trả lời cho rằng có ảnh hưởng nhưng không nhiều. Điều này phù hợp với ý kiến của các cán bộ của các tổ chức mà người nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu.
          Thứ nhất, đối với hoạt động Đoàn trong thôn thì anh phụ trách Bùi Quang Tuấn cho biết: Theo chỉ đạo từ trên thì có các hoạt động chính là: bóng đá nhi đồng, văn nghệ thiếu niên, cắm trại, hiến máu nhân đạo, hoạt động tình nguyện (vệ sinh xóm làng, mương máng,…), tham gia đại hội Đoàn vào ngày kỷ niệm 26/3…mà ít có các hoạt động liên quan đến giới tính, tình dục lý do vì nội dung này khá nhiều và rộng nên việc tập hợp các em để triển khai cũng hơi khó vì các em đều thích những hoạt động sôi nổi, năng động. Anh cho biết lượng thanh thiếu niên tham gia nhìn chung là đông nhưng không đều đặn, chỉ vào đợt hè các em mới tham gia, nhóm tuổi chính là 12-15 tuổi còn nhóm các em cấp ba thì ít hơn vì bận học. Anh cho biết các hoạt động Đoàn có ảnh hưởng phần nào đến thanh thiếu niên đây là nơi tạo điều kiện để các em giao lưu, gặp gỡ với nhau, phát triển sự tự tin. Tuy nhiên những kiến thức về giới tính, tình dục thì được lồng ghép thông qua một số bài viết dự thi, nhưng số lượng thanh thiếu niên tham gia cũng rất ít, đôi khi các em miễn cưỡng tham gia vì yêu cầu bắt buộc.
          Quan điểm của anh Tuấn và chị Hoàng Thị Nga (đoàn viên tích cực của thôn) cho biết về lợi ích của việc giáo dục giới tính và tình dục cho thanh thiếu niên đó là sẽ hạn chế được hiện trạng tảo hôn, dẫn đến việc sinh con tuổi vị thành niên hiện vẫn còn tồn tại trong thôn, giảm thiểu tình trạng nạo phá thai trẻ vị thành niên dẫn đến những mối nguy hại cho bản thân các em cũng như cho xã hội. Đặc biệt nếu trong các hoạt động của Đoàn có được chương trình nhằm giáo dục nhận thức cho các em về giới tính, tình dục sẽ càng tăng thêm sự vững mạnh và hoàn thiện hơn vai trò của Đoàn thanh niên. Tuy nhiên, theo góp ý của anh chị thì cần có một chương trình và khuôn nội dung đồng nhất để việc truyền đạt kiến thức được phổ cập và phù hợp với từng lứa tuổi, đồng thời phải tập huấn để cán bộ Đoàn có kinh nghiệm trong truyền đạt nội dung giới tính, tình dục đúng và đủ. Nếu không thì từ một hoạt động mang tính giáo dục cao lại có tác dụng ngược lại, tạo ra những hành vi sai lệch ở các em, gây ra những hậu quả khó lường.
          Qua phỏng vấn anh Tuấn về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa phong tục tập quán tới việc triển khai nội dung giới tính, tình dục trong hoạt động của Đoàn thì anh cho biết: trong thôn thì quan niệm của nhân dân về việc giáo dục con cái về  giới tính, tình dục thì có, nhưng vẫn còn hạn chế. Đồng thời hiện tại trong thôn vẫn còn hiện tượng tảo hôn, đơn thân nuôi con nhỏ nên hoạt động này cũng khó triển khai.
          Về hoạt động của Hội phụ nữ thì theo tiếp xúc của người nghiên cứu với cô Nguyễn Thị Cộng hội trưởng hội phụ nữ thôn và cô Đào Thị Hương hội phó thì được biết: hoạt động chính của hội là giúp chị em được vay vốn làm kinh tế, vay vốn sinh viên, học nghề, tuyên truyền chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản, phát huy vai trò công tác bình đẳng giới,…Nhóm đối tượng hướng đến của Hội là tất cả phụ nữ  ở các nhóm tuổi, trong đó có nhóm thanh thiếu niên nữ với các hoạt động là học nghề, tuyên truyền chăm sóc sức khỏe sinh sản. Hai cô cho biết các hoạt động của Hội hiện đã đáp ứng một số nhu cầu của chị em phụ nữ nhưng mức độ thu hút sự tham gia của các hội viên là chưa cao.
          Đối với hoạt động giáo dục giới tính, tình dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản hội đã thực hiện triển khai nhưng mới chỉ thu hút được các thành viên là nhóm phụ nữ có gia đình tham gia. Còn đối với nhóm thanh thiếu niên nữ thì chưa tham gia nhiều, đại đa số đều nói bận học khi được thông báo về hoạt động của hội, nếu có cũng chỉ khoảng 4-6 cháu, chiếm khoảng < 10% tổng số thành viên tham gia hội.
          Các nội dung về giới tính, tình dục đã được đưa vào lồng ghép với chương trình chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản, nhưng theo các cô thì chưa được đa dạng và thời gian để trình bày là chưa đủ. Nhiều chị em khi tham gia xong vẫn còn nhiều thắc mắc.
Theo hai cô cho biết ảnh hưởng của yếu tố phong tục tập quán đối với việc triển khai hoạt động liên quan tới giới tính, tình dục: Vẫn còn nhiều hạn chế trong nhận thức của hội viên biểu hiện bằng việc các chị em hội viên khi được thông báo về các hoạt động này đều nói ai chả biết những cái đó, đi làm gì. Nếu vận động cho nhóm tuổi 15-18 đi thì phụ huynh lại nói cho chúng nó học mấy cái đó hư người ra. Ngoài ra trong thôn vẫn có hiện tượng tảo hôn với mang thai tuổi dưới 18 nên các chị em không muốn cho con gái mình tham gia những buổi sinh hoạt vì không muốn cho con biết những điều đó quá sớm.
Còn với hai cô thì các cô cho rằng nên cho con em nhất là con gái tham gia vì như thế chúng nó có kiến thức để tự chăm sóc và bảo vệ bản thân trước mọi tình huống. Bởi vì trong các hoạt động về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục thì đều có tài liệu phát kèm, được thực hành các biện pháp phòng tránh thai, quan hệ tình dục an toàn. Tuy nhiên cũng cần cẩn trọng nếu không thì cũng có tác động xấu dẫn đến hậu quả chúng quan hệ tình dục sớm.
Đóng góp của hai cô để công tác giáo dục phát huy hơn nữa là: cần có các chương trình về giáo dục giới tính, tình dục và sức khỏe sinh sản đa dạng về nội dung và hình thức để thu hút sự tham gia của hội viên nhất là các cháu thanh thiếu niên độ tuổi dậy thì trở lên.
Về hoạt động của cơ sở y tế thị trấn Gia Lộc: Theo phỏng vấn sâu của người nghiên cứu với trạm trưởng Nguyễn Văn Bình và y sỹ Phạm Thị Kim thì được biết: các hoạt động của cơ sở đã đáp ứng nhu cầu khá chữa bệnh cơ bản của nhân dân. Lượng thanh thiếu niên đến thăm khám tại cơ sở là không nhiều (lý do vì mỗi trường đều có trạm y tế riêng), chỉ có nhóm thanh thiếu niên đã lập gia đình đến thăm khám thai và tiêm phòng.
Trạm y tế có các chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc dinh dương thai nhi, tiêm phòng vacxin, phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS, chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản trong đó có lồng ghép các thông tin về giới tính. Nhóm đối tượng chính là nhóm tuổi 15-45 để tuyên truyền phổ biến kiến thức về sinh sản, tình dục an toàn phòng tránh thai, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV,.. và sinh con thứ ba. Nhưng nhìn chung thì các đối tượng tham gia không lớn. Vì các hình thức tuyên truyền, phổ biến mới chỉ dừng lại ở việc phát tài liệu, trò chuyện, thực hành một số cách phòng, tránh thai và lây nhiễm HIV. Do đó chưa thể hiện hết được các nội dung mà chăm sóc sức khỏe tình dục, sinh sản và nội dung giáo dục giới tính. Chính sự nghèo nàn về phương thức tuyên truyền và chưa đầy đủ thông tin nên mức độ quan tâm và tham gia của các đối tượng là ít nhất là thanh thiếu niên thì càng hiếm.
Theo trạm trưởng trạm y tế thị trấn và cô Kim thì nhìn chung các em có những hiểu biết cơ bản về giới tính, tình dục nhưng rất hạn chế về cách phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng như mang thai ngoài ý muốn. Bằng chứng là số ca nạo phá thai đang ngày một tăng, theo số liệu năm 2011 là trên 1.5 triệu ca/năm. Theo cung cấp của cô, chú thì ngay trên địa bàn thị trấn cũng có hiện trạng nạo phá thai, số lượng khoảng trên 100 ca/ năm, trong đó đối tượng thanh thiếu niên cũng chiếm khoảng 25% số ca. Trong đó, tỷ lệ thanh thiếu niên của thôn Đức Đại cũng chiếm >1/3 trong số ca trên.
Theo thống kê của trạm thì số lượng mang thai vị thành niên hiện đang có sổ khám thai tại trạm là khoảng 80 đối tượng (trong thôn Đức Đại có khoảng 25 trường hợp). Điều này cho thấy sự bất cập trong quy định về hôn nhân, hiện trạng tảo hôn vẫn còn trên địa bàn thị trấn va thôn Đức Đại.
Theo ý kiến của trạm trưởng cơ sở y tế thị trấn thì: dịch vụ y tế có ảnh hưởng lớn đến việc tuyên truyền kiến thức giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên: Đây là kênh cung cấp thông tin một cách chính thống, xác thực và có căn cứ khoa học. Tuy nhiên hiện vẫn chưa phát huy được vai trò đó.
Theo ý kiến đóng góp của cô Kim và chú Bình thì cơ sở y tế nên kết hợp với nhà trường tổ chức các buổi tọa đàm trao đổi với học sinh về các nội dung của giới tính, tình dục. Như vậy sẽ thu hút đối tượng thanh thiếu niên tham gia.
Qua những tổng hợp các ý kiến trả lời của đại diện các tổ chức xã hội, người nghiên cứu nhận thấy ảnh hưởng của yếu tố giáo dục cộng đồng thông qua hoạt động của các tổ chức: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Cơ sở y tế là mang tính tích cực nhưng vẫn chưa phát huy được vai trò đó. Các nội dung về giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên đã có nhưng chưa được phổ biến sâu rộng, các nội dung vẫn lồng ghép trong các hoạt động khác, phương thức truyền tải còn kém đa dạng nên chưa thu hút được sự tham gia của các đối tượng nhất là thanh thiếu niên.
          Theo ý kiến của thanh thiếu niên thì có 17 em thường xuyên trao đổi với nhóm bạn chiếm 17%, có 19 em (chiếm 19%) thỉnh thoảng trao đổi với nhóm bạn. Còn lại 64 em (chiếm 64%) không bao giờ trao đổi với bạn bè. Như vậy có thể thấy 1/3 trong số các thanh thiếu niên tham gia điều tra có trao đổi và chia sẻ với nhóm bạn.

Bảng 19: Nội dung giới tính, tình dục thanh thiếu niên trao đổi với nhóm bạn theo giới tính và độ tuổi


Giới tính


Nam
Nữ


Tuổi mã hóa
Tuổi mã hóa


12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi
12 – 14 tuổi
15 - 18 tuổi


Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Nội dung giới tính, tình dục trao đổi với nhóm bạn
Cách chăm sóc bản thân khi dậy thì
1
4.2%
0
.0%
4
16.7%
0
.0%
Tình yêu tuổi học sinh
3
12.5%
11
45.8%
3
12.5%
4
16.7%
Quan hệ tình dục
0
.0%
8
33.3%
0
.0%
4
16.7%
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
1
4.2%
4
16.7%
0
.0%
2
8.3%
Ý bạn
0
.0%
1
4.2%
0
.0%
1
4.2%
         
Qua bảng trên có thể thấy nội dung mà thanh thiếu niên cả nam và nữ đều trao đổi với nhóm bạn chủ yếu nhất vẫn là tình cảm tuổi học sinh, tuy vậy ở nhóm tuổi 15-18 thì các em nam trao đổi với bạn nhiều hơn em nữ: 11 em nam (tương ứng với 45.8%) so với 4 em (16.7%) . Tại sao lại có điều này người nghiên cứu đã thông qua phỏng vấn sâu với các em thì được biết do lứa tuổi này các em đã có rung động với các bạn khác giới nhưng không dám chia sẻ với phụ huynh, thầy cô giáo vì ngại ngùng, nên các em tìm tới nhóm bạn để tìm sự đồng cảm, nhất là các em nam.
          Nội dung về quan hệ tình dục thì nhóm 15-18 tuổi tỏ ra quan tâm hơn so với nhóm tuổi từ 12-14. Lý do người nghiên cứu thu được là: Các em nam thì nói rằng do thấy nhiều bạn nói tới vấn đề đó và không muốn mình bị gạt ra ngoài nên cũng phải tìm hiểu để bằng bạn, hơn nữa cũng là để tích lũy kiến thức cho bản thân. Còn các bạn nữ thì nêu nguyên nhân mình trao đổi với các bạn về điều này là do cũng đã đọc nhiều trường hợp trên báo về việc tự tử, nạo thai khi vẫn còn là học sinh.
          Nói về ảnh hưởng của nhóm bạn tới kiến thức giới tính, tình dục thu nhận được thì các em cho rằng:

Bảng 20: So sánh ý kiến của thanh thiếu niên về thuận lợi, khó khăn khi trao đổi với nhóm bạn về giới tính, tình dục theo mức độ chia sẻ với nhóm bạn và độ tuổi



Trao đổi với nhóm bạn
Tuổi mã hóa



Thường xuyên
Thỉnh
thoảng
Không bao giờ
12 - 14 tuổi
15 - 18 tuổi



Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Count
Table N %
Thuận lợi
Dễ hiểu nhau
3
3.0%
18
18.0%
0
.0%
6
6.0%
15
15.0%
Không ngại khi chia sẻ
4
4.0%
16
16.0%
0
.0%
7
7.0%
13
13.0%
khác
0
.0%
1
1.0%
64
64.0%
22
28.0%
43
49.0%
Khó khăn
Thông tin dễ sai lệch
5
5.0%
14
14.0%
56
56.0%
31
31.0%
44
44.0%
Sợ  bị lôi kéo vào các hành động không tốt
12
12.0%
0
.0%
12
12.0%
0
.0%
24
24.0%
Ý bạn
0
.0%
5
5.0%
5
5.0%
4
4.0%
6
6.0%

          Qua bảng trên có thể thấy trong nhóm các thanh thiếu niên hay trao đổi với nhóm bạn thì cho rằng những thuận lợi khi trao đổi vấn đề giới tính, tình dục với nhóm bạn đó là: thứ nhất không ngại ngùng khi chia sẻ với 20 bạn lựa chọn tương ứng với 20%, với 7 bạn thuộc nhóm 12-14 tuổi và 13 bạn thuộc nhóm 15-18 tuổi. Lý do thứ hai là vì cùng tuổi nên hiểu nhau tỷ lệ này là 21% với 6 bạn thuộc nhóm tuổi 12-14 và 15 bạn thuộc nhóm tuổi 15-18. Những ý kiến này không có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi.
          Qua bảng trên cũng thấy được đại đa số các em có ý kiến cho rằng khó khăn chính khi trao đổi với nhóm bạn là sự dễ bị sai lệch thông tin tỷ lệ chung là 75%, điều này không chỉ có ở các thanh thiếu niên thường xuyên và thỉnh thoảng trao đổi với nhóm bạn mà còn ở cả nhóm không bao giờ trao đổi. Và cũng không có sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm tuổi. Ngoài ra, một số thanh thiếu niên cho rằng khó khăn thứ hai khi trao đổi với nhóm bạn là: Sợ bị lôi kéo vào các hành động xấu tỷ lệ này là 24%, tập trung ở nhóm tuổi 15-18 và ở các thanh thiếu niên thường xuyên trao đổi và không bao giờ trao đổi. Tại sao nhóm thường xuyên trao đổi lại có 12 em (tương ứng với 12%) cho rằng sợ bị lôi kéo vào hành động xấu người nghiên cứu đã phỏng vấn sâu một số em thì các em nói rằng: Vì khi trao đổi nhóm bạn sẽ có người dẫn xướng việc thử các thông tin mà nhóm mới phát hiện ra, như vậy sẽ không tránh khỏi việc có những hành động sai lệch.
          Nói về ảnh hưởng của nhóm bạn tới thông tin giới tính, tình dục và hành vi của thanh thiếu niên thì 25 trong tổng số 30 phụ huynh, chiếm 83.3% cho rằng sẽ là không tốt, vì dễ bị bạn bè lôi kéo, chỉ dạy những điều không tốt. Chính vì vậy để tránh những ảnh hưởng không tốt từ bên ngoài bao gồm nhóm bạn thì phụ huynh đã dùng các hình thức:

Bảng 21: So sánh ý kiến về biện pháp của phụ huynh giúp con tránh ảnh hưởng xấu từ  bên ngoài theo giới tính


Giới tính


Nữ
Nam


Count
Table N %
Column N %
Count
Table N %
Column N %
Tránh ảnh hưởng xấu
Kiểm soát chặt chẽ
12
40.0%
63.2%
4
13.3%
36.4%
Giáo dục nhắc nhở
8
26.7%
42.1%
5
16.7%
45.5%
Răn đe, đánh đập
2
6.7%
10.5%
4
13.3%
36.4%
Khác
0
.0%
.0%
0
.0%
.0%

          Qua bảng trên có thể thấy các hình thức chính mà phụ huynh sử dụng nhằm giúp con tránh những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài vừa có sự giáo dục nhắc nhở tỷ lệ là 53.3 % trong đó phụ huynh nữ áp dụng nhiều hơn phụ huynh nam (8 phụ huynh nữ (chiếm 26.7%) so với 5 phụ huynh nam (chiếm 16.7%)  nhưng cũng có những biện pháp mạnh là răn đe, đánh đập tỷ lệ này là 20% trong đó phụ huynh nam sử dụng biện pháp này gấp đôi phụ huynh nữ (4 phụ huynh nam ( tương ứng 13.3%) so với 2 phụ huynh nữ (chiếm 6.7%) và mang tính tiêu cực như kiểm soát, hình thức này được 53.3% phụ huynh sử dụng, trong đó phụ huynh nữ gấp 3 lần phụ huynh nam (12 người (chiếm 40%) so với 4 người (tương ứng 13.3%).
          Như vậy có thể thấy phụ huynh rất chú trọng tới việc bảo vệ con cái khỏi những ảnh hưởng không tốt từ các môi trường nhưng biện pháp họ sử dụng vẫn là sự áp đặt chứ chưa mang tính xây dựng và giáo dục.
          Đánh giá sự ảnh hưởng của nhóm bạn trong việc thu nhận thông tin giới tính, tình dục theo quan điểm của thầy cô giáo mà người nghiên cứu thông qua phỏng vấn sâu thu được: thầy cô giáo cho rằng nhóm bạn vừa có ảnh hưởng tốt vừa không tốt. Ảnh hưởng tốt là các em dễ trao đổi với nhau nhiều thông tin về giới tính, tình dục nhưng lại dễ làm cho nhau hiểu sai những thông tin đó.
          Theo ý kiến thu thập từ phiếu điều tra và phỏng vấn sâu với thanh thiếu niên, phụ huynh thanh thiếu niên, thầy cô giáo và các cán bộ đoàn thể trên địa bàn thôn Đức Đại, người nghiên cứu nhận thấy, tất cả các khách thể tham gia điều tra đều cho biết: địa phương vẫn còn hiện tượng tảo hôn và sinh con tuổi vị thành niên, đơn thân nuôi con nhỏ, nạo phá thai… Những hiện tượng này nếu không giảm thiểu và được ngăn chặn sẽ là tiền đề gia tăng số lượng các trường họp trong thôn, trong đó nhất là hiện tượng tảo hôn và sinh con vị thành niên. Đây chính là lý do cần thúc đẩy việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn. Tuy nhiên các khách thể nghiên cứu cũng cho rằng khó thực hiện được bởi quan niệm của đại đa số người dân trong thôn: tình dục là sự tế nhị, là riêng tư nên không được mang ra bàn luận, hướng dẫn. Điều này dẫn đến sự ngại ngùng, khó nói về vấn đề tình dục đối với thanh thiếu niên.
          Đối với hoạt động của các tổ chức nếu có chương trình tuyên truyền phổ biến về giáo dục giới tính thì không thu hút được sự tham gia của thanh thiếu niên bởi quan niệm của người dân trong thôn là : “không biết giáo dục điều tốt hay phơi bày cái xấu để làm hư thanh thiếu niên, tốt nhất là không cho chúng tham gia”. Ngay chính các phụ huynh tham gia phỏng vấn cũng có quan niệm này.
          Như vậy có thể thấy, yếu tố văn hóa phong tục tập quán của địa phương đã và đang có ảnh hưởng làm hạn chế sự phát triển của công tác giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn.
          Mặc dù vấn đề giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên có tầm quan trọng đặc biệt tuy nhiên điều này vẫn chưa được gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm bởi nhiều yếu tố tác động. Nhưng chủ yếu vẫn do yếu tố giáo dục gia đình, trong nhà trường, truyền thông, giáo dục cộng đồng, nhóm bạn.
          Qua những phân tích từ tình hình thực tế của địa bàn nghiên cứu, người nghiên cứu nhận thấy các ảnh hưởng vừa tích cực vừa tiêu cực của các yếu tố nêu trên. Từ đó, người nghiên cứu muốn đưa ra một số giải pháp cho vấn đề.
Bản thân cha mẹ và người thân trong gia đình cần hiểu rõ trách nhiệm của mình cũng như đối mặt với thực tế rằng con cái có quyền được tìm hiểu về những nội dung của giới tính, tình dục để hoàn thiện nhân cách và lối sống lành mạnh, tránh được các nguy cơ đã nêu ở trên.
Cha mẹ nên chủ động tiếp xúc với con nhiều hơn để giúp con giải đáp những thắc mắc, lo lắng. Cha mẹ cần thống nhất việc tuổi nào và nội dung sẽ được trao đổi với con để không khỏi lúng túng khi con hỏi. “ Cha có thể trò chuyện với con trai, mẹ tâm sự cùng con gái”.
Có những cách thức giáo dục hợp lý, khéo léo, thái độ sẵn sàng, cởi mở, hạn chế sự nóng giận, thờ ơ, lảng tránh các vấn đề liên quan tới giới tính, tình dục khi con cái thắc mắc.
Mua cho con những cuốn sách giáo dục giới tính với những nội dung lành mạnh phù hợp với từng lứa tuổi con và hãy cùng con đọc và giải thích những phần con không hiểu.
Quan tâm đến những biểu hiện cũng như các mối quan hệ bạn bè, xã hội của con nhằm kịp thời phát hiện những sai lệch để giáo dục con.
Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của con để biết được những biến đổi của con (ví dụ: Tình hình học tập, mối quan hệ với bạn bè của con) để chia sẻ và định hướng cho con.
Khi con cái biết rung động hãy dạy con cách yêu, các biện pháp tránh thai, quan hệ tình dục an toàn và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục mà không nên lo ngại như thế là “ vẽ đường cho hươu chạy”.
Đề nghị đưa vào chương trình giảng dạy về giáo dục giới tính với nội dung phù hợp với từng lứa tuổi. Phát hành các ấn phẩm (sách, báo tường,…) và có những phương pháp giáo dục phù hợp tránh tình trạng “thầy dậy trò nữ, cô dạy trò nam”,….
Thực hiện gặp gỡ trao đổi với gia đình các học sinh để phát hiện và định hướng các hành vi sai lệch với chuẩn mực xã hội.
Kết hợp với các cơ sở y tế tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi, giải đáp thắc mắc của học sinh về giới tính, tình dục. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về giới tính, tình dục cho học sinh trong trường.
Tổ chức lập phòng tư vấn tâm lý tại trường, mở các hộp thư tay, qua email,.. để các em học sinh có thể hỏi trực tiếp hoặc gửi những thắc mắc của mình.
Những bộ môn có lồng ghép nội dung giới tính, tình dục thì các thầy cô nên sử dụng các hình thức như trình chiếu powerpoint, thảo luận nhóm,…để thu hút sự tham gia của các em.
Tổ chức thực hiện riêng hoặc lồng ghép vào các hoạt động, chương trình của tổ chức các nội dung giới tính, tình dục nhất là cho đối tượng thanh thiếu niên.
Đa dạng về các hình thức tuyên truyền, phổ biến thông qua: Tổ chức các cuộc thi, các lớp đào tạo,… để thu hút sự tham gia của thanh thiếu niên, thẳng thắn trao đổi về vấn đề này nhằm đưa ra giải pháp thiết thực nhất.
Tổ chức nhiều các buổi sinh hoạt, tọa đàm hoặc mời chuyên gia về trao đổi các thông tin giới tính, tình dục cho các đối tượng trong đó có thanh thiếu niên.
Phối kết hợp giữa các tổ chức để giảm thiểu các hiện trạng như: tảo hôn, mang thai vị thành niên, nạo phá thai,… trên địa bàn. Đồng thời tích cực tuyên truyền nhằm cải biến tư tưởng từ e ngại sang cởi mở trong việc trao đổi vấn đề giới tính, tình dục.
Cần trao đổi thẳng thắn với cha mẹ về những lo lắng, thắc mắc của mình.
Không nên giấu diếm hoặc tự tìm hiểu, khám phá mà thu nhận những thông tin sai lệch hoặc lo lắng tích tụ dẫn đến trầm cảm…
Nếu khó nói với cha mẹ có thể viết nhật ký rồi cho cha mẹ xem ( đối với lứa tuổi dậy thì, biết yêu…).
Tham gia các cuộc thi tìm hiểu giáo dục giới tính do nhà trường, các đoàn thể tổ chức.












Qua hoạt động nghiên cứu và khảo sát thực tiễn người nghiên cứu đã thu được một số kết quả như: Tỷ lệ thanh thiếu niên có kiến thức đúng về các vấn đề giới tính là 46%, về tình dục là 100%, các em đã có hiểu biết phần nào về nội dung trong giáo dục giới tính và tình dục. Nguồn cung cấp thông tin về giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên chủ yếu là bố mẹ, bạn bè, sách, báo, internet…
Lượng kiến thức về giới tính, tình dục càng tăng cao theo độ tuổi của thanh thiếu niên. Và các em nam có thái độ về việc quan hệ tình dục tuổi học sinh, trao đổi với bạn bè về giới tính, tình dục cao hơn ở nữ.
Về ảnh hưởng của các yếu tố gia đình, nhà trường người nghiên cứu đã phân tích dựa trên ba tiêu chí: Nội dung, phương thức, thái độ và ảnh hưởng của những điều đó trong việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn.
Đối với yếu tố truyền thông và giáo dục cộng đồng, nhóm bạn người nghiên cứu phân tích theo: Nội dung, hình thức và ảnh hưởng của các nội dung, hình thức đó tới quá trình nhận thức về giới tính, tình dục của thanh thiếu niên trong thôn.
Để phân tích được sự ảnh hưởng của các yếu tố tới việc giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên người nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp: Thống kê toán học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát, phân tích tài liệu nhằm mang đến cho bài luận những con số chính xác, phản ánh đúng hiện trạng thực tế của địa bàn nghiên cứu.
Từ việc phân tích đó, người nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét, tổng kết những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của các yếu tố đối với công tác giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên trong thôn Đức Đại. Từ đó, người nghiên cứu đưa ra các đề xuất về các giải pháp và kiến nghị trong chương III nhằm giúp cho công tác giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niên được phát huy hơn nữa vai trò tích cực, giảm thiểu các mặt tiêu cực.




“ Hãy nhìn vào sự thật dù sự thật đó có quá sức chịu đựng. Bạn hãy tìm ra nguyên nhân và khắc phục nó. Tất cả đều không bao giờ muộn”.

Thông qua những phân tích trong bài viết có thể thấy vấn đề giáo dục giới tính, tình dục cho thanh thiếu niện hiện vẫn còn nhiều hạn chế mà nguyên nhân từ  các yếu tố từ giáo dục gia đình - nhà trường, giáo dục cộng đồng, truyền thông, nhóm bạn. Vì vậy, trước thực trạng nạo, phá thai và tệ nạn xâm hại tình dục ngày một tăng thì qua bài luận người nghiên cứu mong rằng vấn đề này sẽ được đưa ra trao đổi và có những định hướng điều chỉnh cho phù hợp.
Qua bài viết người nghiên cứu hi vọng đã đưa đến cho người đọc cái nhìn tổng quát nhất sự ảnh hưởng của các yếu tố giáo dục gia đình, nhà trường, cộng đồng, truyền thông,…Người nghiên cứu cũng đã cố gắng tìm hiểu để đưa ra các giải pháp mang tính khả thi, phù hợp với địa bàn nghiên cứu. Qua đó hi vọng thanh thiếu niên sẽ có được những kiến thức, thông tin được cung cấp từ gia đình-nhà trường-các tổ chức xã hội để có một lối sống lành mạnh, một nhân cách tốt.
Tuy đã cố gắng nghiên cứu nhiều tài liệu nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự động viên, đóng góp ý kiến của giảng viên hướng dẫn Th.S Lý Thị Hàm, thầy cô giáo và các bạn để bài viết được đầy đủ, phong phú và hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!









1.       Tài liệu chuyên khảo Giới và phát triển, trường Đại học Lao Động xã hội, 2008
2.       Giáo trình Tâm lý học phát triển nhà xuất bản giáo dục 2008.
3.       Giáo trình hành vi con người và môi trường xã hội trường Đại học Lao động xã hội 2010.
4.       Nguyễn hữu Dũng. Giáo dục giới tính, NXBGD, 1999
5.       Thái Thị Ngọc Dư. Giới và phát triển.  2006, Đại học mở bán công TP. Hồ Chí Minh.
6.       Bùi Ngọc Oánh. Một số vấn đề tâm lý học giới tính. Tài liệu lưu hành nội bộ Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
7.       Sinh học 8, Nguyễn Quang Vinh (chủ biên) và cộng tác viên, nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
8.       Bộ giáo dục và đào tạo, viện khoa học giáo dục Việt Nam, “Giáo dục dân số sức khỏe sinh sản vị thành niên”.
9.       Khóa luận tốt nghiệp, sinh viên Lê Kiều Anh, lớp Đ2.CT2, đề tài “Thực trạng lao động nữ giúp việc tại thành phố” trường Đại học Lao động xã hội.
10.  Khóa luận tốt nghiệp, sinh viên Cù Xuân Diệu, lớp DH06SK, đề tài “Tìm hiểu thực trạng giáo dục giới tính tại trường Trung học phổ thông Châu Thành – Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu”, đại học Lâm nông TP. Hồ Chí Minh.
11.  Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Nhung trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên “Biện pháp giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy – tỉnh Nam Định” tháng 9/2009.
12.  Bài viết “giáo dục sức khỏe tính dục” của B.S, Th.S Trương Trọng Hoàng, Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe thành phố Hồ Chí Minh
13.  “Colombia Mặt bằng cơ bản Sexological” của  José Manuel González , MA, Rubén Ardila , Tiến sĩ Pedro Guerrero , MD, Gloria Penagos , MD, và Bernardo Useche , Tiến sĩ Translated by Claudia Rockmaker, MSW, và Luciane Raibin, MS.
14.  Một số bài viết, tác phẩm khác.
15.  Các trang web tham khảo
http://blogkotex.net.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét